Xuất khẩu thủy sản tháng 3/2020 giảm gần 20%

Dịch Covid 19 lây lan mạnh trên toàn cầu khiến cho sản xuất và XK thủy sản của cả nước bị ảnh hưởng nặng nề. Ước tính XK thủy sản trong tháng 3 giảm gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái chỉ đạt 549 triệu USD. Trong đó, XK sang những thị trường lớn bị ảnh hưởng dịch bệnh đều giảm mạnh. XK sang EU giảm sâu nhất (-40%), sang Trung Quốc giảm 25%, Hàn Quốc giảm 24%, Nhật Bản giảm 19%.

XK sang Mỹ giảm ít hơn các thị trường khác (-8.6%) có thể nhờ sản phẩm thủy sản của Việt Nam vẫn giữ được thị phần tại phân khúc bán lẻ. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản của Mỹ nói chung giảm nhưng nhu cầu các sản phẩm tươi, sống, đóng hộp vẫn tăng. Trong tuần đầu tháng 3, doanh số bán lẻ thủy sản đóng hộp tại Mỹ tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo phản ánh của một số DN thủy sản, thị trường Trung Quốc đã có nhu cầu NK trở lại nhưng đơn đặt hàng không nhiều, hơn nữa, khách hàng Trung Quốc muốn ép giá mặc dù giá chào bán sản phẩm đã thấp hơn so với trước dịch. Hơn nữa, sau khi dịch Covid bớt căng thẳng tại Trung Quốc, các DN nước này có nhu cầu NK nhưng khó tiếp cận các nguồn tài chính để vay vốn.

Dịch bùng phát, nhiều nước phong tỏa khiến cho hoạt động thương mại đình trệ, do vậy XK sang các thị trường sụt giảm mạnh. Các thị trường có tỷ lệ khách hàng yêu cầu hoãn giao hàng hoặc hủy đơn hàng tập trung chủ yếu tại thị trường Châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tiêu thụ chậm khiến việc thanh toán cũng bị trì hoãn ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn của DN.

Trong tháng 3/2020, XK cá tra và cá ngừ đều giảm trên 29%, XK mực- bạch tuộc giảm mạnh hơn trên 31%, trong khi XK tôm giảm 15%.

Tính đến hết tháng 3/2020, XK thủy sản của cả nước ước đạt trên 1,5 tỷ USD, giảm 14%. Trong đó, XK cá tra giảm mạnh nhất (-31%) , chủ yếu do giảm sang thị trường Trung Quốc từ 2 tháng đầu năm. XK tôm giảm nhẹ 4,3%, trong khi XK các mặt hàng hải sản giảm sâu (cá ngừ giảm 13,5%, mực-bạch tuộc giảm 28%).

Hiện nay, giá tôm, cá tra nguyên liệu đều giảm vì người nuôi sợ rớt giá thu hoạch sớm, một số DN tạm ngừng mua nguyên liệu vì đơn hàng giảm (bị hoãn, hủy, không có đơn hàng mới), kho lạnh để trữ hàng bị đầy và thiếu. Tình trạng này có thể dẫn đến thiếu nguyên liệu vào cuối năm, khi dịch bệnh hết, nhu cầu tăng lại nếu người nuôi hạn chế hoặc bỏ ao vì không trụ được ở giai đoạn này.

Diễn biến dịch bệnh Covid còn đang rất phức tạp tại các nước trên thế giới, do vậy, trong vài tháng tới, tình hình XK chắc chắn tiếp tục bị tác động giảm. DN chưa thể thoát khỏi tình trạng bị sụt giảm, hoãn/hủy đơn hàng, vận tải hàng hóa khó khăn, việc thanh toán cũng không thuận lợi, sẽ có không ít DN (nhất là những DN nhỏ) không thể trụ vững vì thiếu vốn để duy trì, để quay vòng kinh doanh.

Do vậy, DN thủy sản đang rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ ngành liên quan nhằm giảm bớt áp lực và khó khăn do ảnh hưởng của Covid-19: miễn nộp kinh phí Công đoàn, giảm thuế TNDN, giảm giá điện, thuê kho lạnh, gia hạn thanh toán điện, giãn nợ, cho vay lãi suất thấp, giảm các thủ tục hành chính, thanh tra, kiểm tra và chuẩn bị phương án và điều kiện để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất – XK sau dịch.

XK thủy sản sang các thị trường, T1-3/2020 (triệu USD)

THỊ TRƯỜNG

Tháng 3/2020 (ước)

So với cùng kỳ 2019 (%)

Từ 1/1 – 31/3/2020 (ước)

So với cùng kỳ 2019 (%)

Nhật Bản

103,000

-18,9

287,637

-6,4

Mỹ

95,866

-8,6

275,423

-2,8

EU (-Anh)

68,294

-40,1

201,164

-28,3

Hà Lan

20,761

-3,3

43,400

-16,3

Đức

9,718

-35,4

30,712

-24,0

Bỉ

9,423

-21,5

25,519

-8,2

Pháp

5,098

-40,3

15,879

-25,6

TQ và HK

66,434

-25,1

150,714

-36,9

Hồng Kông

5,775

-57,4

25,873

-35,4

Hàn Quốc

50,704

-23,8

147,862

-14,6

ASEAN

45,952

-25,5

143,428

-12,4

Anh

19,183

+0,9

53,595

-12,9

Canada

17,857

-0,3

49,567

+2,9

Australia

18,500

+11,8

46,878

+8,7

Nga

10,993

+29,4

26,051

+147,6

Các TT khác

52,357

-10,7

158,341

-11,6

TỔNG CỘNG

549,139

-19,6

1.540,660

-14,2

Sản phẩm thủy sản xuất khẩu, T1-3/2020 (triệu USD)

SẢN PHẨM

Tháng 3/2020 (ước)

So với cùng kỳ 2019 (%)

Từ 1/1 – 31/3/2020

(ước)

So với cùng kỳ 2019 (%)

Tôm các loại (mã HS 03 và 16)

207,692

-14,9

591,083

-4,3

trong đó: – Tôm chân trắng

149,010

-8,4

417,216

+2,1

– Tôm sú

39,891

-29,3

112,948

-23,2

Cá tra (mã HS 03 và 16)

114,988

-29,2

325,305

-31,1

Cá ngừ (mã HS 03 và 16)

46,787

-29,5

141,284

-13,5

trong đó: – Cá ngừ mã HS 16

17,509

-36,8

58,870

-13,9

– Cá ngừ mã HS 03

29,278

-24,2

82,415

-13,3

Cá các loại khác (mã HS 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra)

128,066

-8,6

331,654

-6,3

Nhuyễn thể (mã HS 0307 và 16)

42,340

-30,4

121,621

-25,5

trong đó: – Mực và bạch tuộc

35,729

-31,5

101,603

-28,2

– Nhuyễn thể hai mảnh vỏ

6,454

-12,6

19,355

-4,1

Cua, ghẹ và Giáp xác khác (mã HS 03 và 16)

9,266

-3,5

29,712

+19,1

TỔNG CỘNG

549,139

-19,6

1.540,660

-14,2

Nguồn tin: Vasep