[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Vi khuẩn tía không lưu huỳnh R. sphaeroides và A. marina có tiềm năng lớn trong việc ngăn ngừa bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) và duy trì chất lượng nước trong nuôi tôm.
Yếu tố chính góp phần bùng phát bệnh tôm là chất lượng nước không phù hợp trong quá trình nuôi, vì trong ao nuôi luôn có sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh. Điều này là yếu tố chính gây ra các bệnh trên tôm và ảnh hưởng trực tiếp đến tôm. Là động vật thủy sinh nên tình trạng sức khỏe của tôm phụ thuộc nhiều vào môi trường. Việc sử dụng chế phẩm sinh học sẽ là giải pháp thu hút người chăn nuôi góp phần giảm tình trạng kháng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, còn ít nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học để ngăn ngừa các bệnh tôm như AHPND và làm sạch nước trong nuôi tôm. Nghiên cứu này sẽ chứng minh các chủng Rhodobacter sphaeroides và Afifella marina là chủng thúc đẩy sự phát triển của tôm ở giai đoạn ấu trùng và tăng tỷ lệ sống của tôm sau khi công cường độc với chủng AHPND.
Phương pháp nghiên cứu
Các chủng probiotic
Trong nghiên cứu này, chế phẩm sinh học PNSB bao gồm: R. sphaeroides (SS15, S3W10 và TKW17) và A. marina (STW181) phân lập từ các ao nuôi tôm ở miền nam Thái Lan đã được sử dụng.
Thí nghiệm về chất lượng nước và tốc độ tăng trưởng
Tôm thẻ chân trắng ở giai đoạn hậu ấu trùng (PL19) được sử dụng để nghiên cứu vai trò của PNSB đối với chất lượng nước trong nuôi tôm. Nghiên cứu được thiết kế bằng cách sử dụng môi trường nuôi cấy hỗn hợp (1:1) dựa trên khả năng ức chế Vibrios, đặc biệt là các chủng V. parahaemolyticus (AHPND) và thúc đẩy tăng trưởng tôm như sau:
+ Đối chứng: Không bổ sung PNSB.
+ Nghiệm thức 1 (T1): Bổ sung SS15 và S3W10.
+ Nghiệm thức 2 (T2): Bổ sung TKW17 và S3W10.
+ Nghiệm thức 3 (T3): Bổ sung STW181 và S3W10.
Toàn bộ bể nuôi tôm có kích thước 12,5 x 12,5 x 25,5 cm, tôm được nuôi thích nghi trong 3 ngày và được cho ăn thức ăn công nghiệp 4 lần/ngày (7h, 12h, 16h và 20h) với 2% tổng trọng lượng cơ thể. Thí nghiệm này được thực hiện trong 8 tuần với 3 lần lặp lại và các thông số chất lượng nước được theo dõi hàng tuần trong quá trình nuôi tôm.
Thí nghiệm về chất lượng nước, tốc độ tăng trưởng và cảm nhiễm V. parahaemolyticus
Hỗn hợp 3 chủng PNSB (SS15, S3W10 và STW181) được thiết kế để biết vai trò của PNSB đối với chất lượng nước và cảm nhiễm V. parahaemolyticus (SR2) ở giai đoạn hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng (PL 15). Thiết kế thử nghiệm bao gồm:
+ Đối chứng: Không tiêm PNSB và V. parahaemolyticus (SR2).
+ Nghiệm thức 1 (C1): Tiêm V. parahaemolyticus (SR2).
+ Nghiệm thức 2 (C2): Tiêm PNSB và V. parahaemolyticus (SR2).
+ Nghiệm thức 3 (C3): Tiêm PNSB.
40 con tôm được chia ngẫu nhiên vào từng bể và không thay nước trong suốt quá trình nuôi. Cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus SR2 với liều lượng 1×105 CFU/ml sau 15 ngày nuôi thử nghiệm. Thí nghiệm được tiến hành trong 30 ngày với 3 lần lặp lại.
Kết quả nghiên cứu
Chất lượng nước trong nuôi tôm
Trong 8 tuần nuôi tôm với tỷ lệ thay nước 50%, không có sự khác biệt đáng kể về nhiệt độ (25-26°C) và độ mặn (15-17‰) so với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, giá trị DO (7,47-8,04 mg/L) và pH (7,53-8,14) tăng đáng kể (P< 0,05) trong các nhóm bổ sung PNSB. Ngược lại, lượng NH4+ có sự thay đổi, trong đó nồng độ NH4+ thấp nhất được tìm thấy ở lô T1 (1,22 ± 0,02 mg/L) trong khi nồng độ NH4+ cao nhất được tìm thấy ở nhóm đối chứng (3,63 ± 0,02 mg/L) và nồng độ thấp hơn T2 và T3 (3,03 ± 0,02 đến 3,13 ± 0,02 mg/L).
Lượng NO2 – tăng theo thời gian nuôi ở tất cả các nhóm thử nghiệm, đặc biệt là nhóm đối chứng; và nồng độ NO2 – cao nhất được tìm thấy ở tuần thứ 8 ở nhóm đối chứng (0,109 ± 0,003 mg/L) và trong tất cả các nhóm thử nghiệm trong khoảng (0,087±0,006 đến 0,097±0,005 mg/L.
Tương tự đối với mức NO2 –,mặc dù mức NO3 – giảm ở tuần thứ 3 trong tất cả các nhóm; và nồng độ NO3 – tối đa được tìm thấy ở tuần thứ 8 trong nhóm đối chứng (4,23 ± 0,06 mg/L), tiếp theo là T1 (4,13 ± 0,06 mg/L), T3 (3,80 ± 0,10 mg/L) và T2 (3,40 ± 0,10 mg/L). Tất cả các nhóm đều tạo ra sự thay đổi về mức COD tương tự nhau vì không có nhiều thay đổi trong 7 tuần nuôi và tăng đáng kể (P< 0,05) ở tuần thứ 8 với mức cao nhất trong nhóm đối chứng (57,60 ± 4,73 mg/L), tiếp theo là T1 (42,27 ± 4,57 mg/L), T3 (44,93 ± 5,83 mg/L) và thấp nhất ở T2 (38,53 ± 1,01 mg/L).
Trong thí nghiệm 2 không thay nước, không tìm thấy sự khác biệt đáng kể (P >0,05) về độ mặn (15-17‰) và nhiệt độ (24-25o C) trong tất cả các nhóm thử nghiệm trong suốt quá trình nuôi tôm. Tuy nhiên, trong tất cả các nhóm thử nghiệm, giá trị DO giảm trong khi pH, COD, NH4+, NO2 – và NO3 – tăng đáng kể (P< 0,05).
Tốc độ tăng trưởng của tôm
Khi kết thúc quá trình nuôi trong thí nghiệm 1, tốc độ tăng trưởng của tôm dựa trên kích thước và trọng lượng tăng đáng kể (P< 0,05) ở tất cả các nghiệm thức ở mức độ T3 > T1 > T2 > đối chứng (Bảng 1). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống của tôm giữa các nhóm thử nghiệm và đối chứng (Bảng 1).
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng của tôm bổ sung PNSB sau 8 tuần thử nghiệm
Đối với thí nghiệm 2, vì không có sự khác biệt đáng kể về trọng lượng và tổng chiều dài của tôm khi bắt đầu thí nghiệm, cho thấy rằng sự khác biệt đáng kể của các kết quả nên được điều chỉnh bằng cách tiêm hỗn hợp ba chủng probiotic PNSB (tuần 1, 2 và 3) và/hoặc cảm nhiễm V. parahaemolyticus (SR2) vào ngày nuôi thứ 15. Không có sự khác về tốc độ tăng trưởng của tôm ở tất cả các thử nghiệm trong 2 tuần nuôi đầu tiên. Tuy nhiên, ở tuần thứ 3, tốc độ tăng trưởng của tôm ở các nhóm C3, C2 và tôm đối chứng cao hơn đáng kể (P< 0,05) so với thử nghiệm C1.
Tỷ lệ sống của tôm liên quan đến quần thể vi khuẩn
Sau 15 ngày nuôi, tôm được cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus (SR2) trong các nhóm thử nghiệm để theo dõi tỷ lệ sống của tôm. 5 con tôm đột ngột chết vào ngày đầu tiên tiếp xúc trong nhóm thử nghiệm và chỉ có1 con tôm chết trong một nghiệm thức tương ứng với tỷ lệ sống là 90,74% và 97,22 (Hình 1). Vào ngày thứ 15, tỷ lệ sống của tôm trong nhóm tiêm C2 (73,12%) cao hơn đáng kể (P< 0,05) so với nhóm C1 (62,37%). Tỷ lệ sống của tôm tăng đáng kể ở các nhóm thử nghiệm đối chứng và C3 lần lượt là 88,71% và 79,57% (Hình 1).
Hình 1. Ảnh hưởng của PNSB và V. parahaemolyticus đối với tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng trong 30 ngày nuôi
Kết luận, hỗn hợp chế phẩm sinh học PNSB (R. sphaeroides SS15, S3W10 và A. marina STW181) có tiềm năng lớn để áp dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng giúp ngăn ngừa bệnh trên tôm, đặc biệt là bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), duy trì chất lượng nước để tăng tỷ lệ sống của tôm và kích thích tôm phát triển. Điều này sẽ góp phần vào nuôi tôm hữu cơ an toàn, bền vững và thân thiện với môi trường.
Thương Nguyễn (Lược dịch)
- A. marina li>
- AHPND li>
- Hoại tử gan tụy cấp tính li>
- R. sphaeroides li>
- vi khuẩn tía li> ul>
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt