Trước khi đến với nghề nuôi ốc nhồi, anh Hưởng đã có nhiều năm làm đủ các nghề nhưng điều kiện kinh tế vẫn chưa có gì, cơ sở vật chất còn thiếu thốn nên hiệu quả sản xuất không cao. Trăn trở tìm hướng phát triển, anh lên mạng internet tìm hiểu các mô hình kinh tế hộ, đặc biệt là các mô hình chuyển đổi sản xuất khai thác tiềm năng ruộng đất sẵn có.
Anh nhận thấy ốc nhồi (hay còn gọi là ốc bươu ta, ốc bươu đen) ngoài đồng, trong ao ngày càng hiếm dần do biến đổi khí hậu, người dân sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ nhiều, trong khi nhu cầu tiêu thụ ốc nhồi ngày càng cao. Không những vậy, đây là loài phát triển rất nhanh, có sức đề kháng tốt, hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với đồng ruộng ở địa phương.
“Tôi mới chợt nghĩ, tại sao không nuôi ốc nhồi?! Nghĩ là làm luôn, tôi mua sách, báo, tài liệu nghiên cứu và bắt tay lập kế hoạch nuôi ốc nhồi” – anh Hưởng cho biết. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, năm 2019, anh Hưởng mua lại ruộng trũng, cấy lúa bấp bênh của nông dân quanh vùng xây trang trại nuôi ốc.
Vạn sự khởi đầu nan!
Mặc dù đã tích lũy được chút ít kiến thức, kinh nghiệm nhưng do kỹ thuật không đồng bộ nên thời gian đầu nuôi ốc nhồi chậm phát triển và chết dần, có những thời điểm ốc chết nổi đầy mặt nước. Kết quả vụ đầu, tỷ lệ sống chỉ đạt 50%. Thất bại này không làm anh nản lòng. Anh lại khăn gói đi học thêm kỹ thuật nuôi ốc nhồi và tìm ra được nguyên nhân khiến ốc chết. Lần này, anh tập trung xử lý tốt môi trường nuôi ngay từ đầu. Anh rút hết nước trong ao, làm sạch bèo, cỏ, dùng chế phẩm sinh học xử lý đáy ao, sau đó mới bơm nước vào ao nuôi và duy trì mực nước cao 60-100 cm để giữ độ an toàn cho ốc. Nguồn thức ăn của ốc nhồi hoàn toàn từ tự nhiên (rêu, bèo tấm, rau mồng tơi, lá sắn…) và ăn rất ít nên anh Hưởng chú ý cung cấp lượng thức ăn cho vừa đủ, không để dư thừa làm ô nhiễm môi trường ao nuôi dẫn đến ốc bị chết.
Ngoài việc quản lý về thức ăn và môi trường ao nuôi, việc quản lý đàn ốc vào mùa nóng, mùa rét và quản lý dịch bệnh cũng được anh Hưởng hết sức quan tâm.
“Ốc nhồi chịu nóng kém nên mùa hè cần phải chú ý chống nóng bằng cách thả thêm bèo vào ao. Còn trong mùa đông, ốc rúc xuống bùn trú đông gần như không hoạt động, lúc này phải rút bớt nước trong ao, thả cây, cỏ xuống ao để giữ ấm cho ốc. Ngoài ra, nuôi ốc nhồi cần lưu ý đến bệnh sưng vòi, là bệnh nguy hiểm nhất trên ốc, dễ gây chết hàng loạt nên phải giám sát ao nuôi thường xuyên. Nếu quan sát thấy ốc có dấu hiệu bỏ ăn, vòi bị sưng to, có mùi hôi cần phải cách ly ngay để xử lý bệnh, tránh dịch lây lan” – anh Hưởng cho biết.
Nhờ chịu khó tìm hiểu tài liệu và quan sát, phát hiện những đặc tính nhỏ nhất ở con ốc nhồi để điều chỉnh phương pháp chăm sóc và đã giảm được thiệt hại do ốc chết vì bệnh. Ngay trong vụ thứ 2, tỷ lệ ốc sống tăng lên trên 80% đã cho thu lãi hàng chục triệu đồng. Thấy chủ động được trong sản xuất, anh đã thuê gom ruộng trũng để cải tạo, mở rộng quy mô nuôi ốc nhồi lên 10 mẫu với 38 ao nuôi, tự nhân giống, phát triển mô hình với số lượng lớn.
Anh Hưởng chia sẻ kinh nghiệm nuôi ốc nhồi cho hiệu quả cao
Chia sẻ về kinh nghiệm sản xuất giống ốc nhồi, anh Hưởng cho biết sau 12 tháng nuôi, ốc nhồi bắt đầu sinh sản và thời gian đẻ trứng rộ thường từ tháng 4 đến tháng 9 khi thời tiết ấm. Để tạo điều kiện cho ốc mẹ đẻ trứng, người nuôi cần làm bệ cao hơn mặt nước, có mái che nắng, mưa và đặc biệt chú ý diệt chuột bảo vệ ốc. Trung bình, mỗi tháng ốc mẹ đẻ 1 buồng trứng từ 120-150 quả. Người nuôi cần thu gom trứng lại, cho vào thùng ấp ở nhiệt độ thích hợp (25-32 độ C) để trứng nở. Sau 15-17 ngày trứng có dấu hiệu nở (chuyển từ màu trắng sang màu đen) người nuôi sẽ cho ra tráng lưới để ốc nở và thích nghi dần với môi trường tự nhiên. Khay để ấp trứng ốc của anh được làm khá đơn giản, 4 viền xung quanh bằng tre, gỗ, giữa căng lưới mắt nhỏ, trứng sau khi thu hoạch dược đưa lên khay để ấp tại khu vực thông thoáng, râm mát. Trứng ốc được chăm sóc tỉ mỉ, kiểm tra thường xuyên. Khoảng 15 ngày, trứng bắt đầu nở. Những con ốc non sẽ lọt qua mắt lưới nhỏ xuống bạt nước phía dưới. Ốc non được đưa ra ương thêm khoảng 1 tháng trước khi chuyển ra ao nuôi thương phẩm. Anh thuê công nhân trang trại kiểm tra từng khoang ương ốc giống để theo dõi sự phát triển và các điều kiện khác. Tỷ lệ sống của ốc giống vào mùa hè đạt 99 – 100%, mùa đông khoảng 90%.
Nuôi thêm 15 ngày ốc con phát triển to bằng đầu đũa có thể xuất bán giống hoặc chuyển ra ao to nuôi thương phẩm. Về ốc thương phẩm, anh Hưởng cho biết khoảng hơn 3 tháng tính từ khi thả ốc giống ra ao to là có thể thu hoạch, tuy nhiên nếu người nuôi kéo dài đến 4 – 4,5 tháng thì chất lượng ốc sẽ nâng lên, già hơn, ngon hơn và to hơn (trọng lượng cũng tăng lên). Mỗi kg ốc thương phẩm bán tại chỗ 70.000 – 100.000 đồng/kg. Vụ ốc năm nay trang trại dự kiến cung cấp ra thị trường 10 – 12 tấn ốc thương phẩm, 40 kg trứng ốc, 40 vạn con ốc giống. Dự kiến năm 2020 tiền lãi từ nuôi ốc giống và ốc thương phẩm, trừ hết chi phí gia đình còn thu lãi hàng tỷ đồng. Từ năm 2021, mỗi năm cung cấp ra thị trường 20 – 30 tấn ốc thương phẩm, 500 – 700 kg trứng ốc và 500 – 1.000 vạn con ốc giống.
Sau 1-2 lứa ốc thương phẩm, anh lại vệ sinh ao nuôi 1 lần để tạo môi trường sạch cho ốc sinh trưởng, phát triển khỏe mạnh. “Con ốc nhồi ngoài tự nhiên đang khan hiếm, giá khá cao, trong khi đó nuôi ốc chi phí thức ăn không nhiều và công chăm sóc ốc lại ít nên mô hình nuôi rất hiệu quả. Ngoài thời gian và công chăm sóc, tôi chỉ tốn 50 triệu đồng mua thức ăn và chế phẩm sinh học xử lý ao. Hiện nay, nhiều diện tích ao, ruộng đồng để không rất lãng phí. Tôi đã hướng dẫn kỹ thuật nuôi ốc, cung ứng ốc giống cho một số hộ dân quanh vùng nuôi và tổ chức thu mua ốc thương phẩm để xuất cho các thương lái cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn trong và ngoài tỉnh. Một số hộ đã thành công với mô hình kinh tế này” – anh Hưởng tâm sự.
Mô hình nuôi ốc nhồi của anh Nguyễn Văn Hưởng đang là một mô hình làm giàu “đầu tư ít hiệu quả cao” cần được các địa phương trong huyện cũng như trong tỉnh và các tỉnh lân cận đánh giá để nhân rộng./.
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt