[Người Nuôi Tôm] – Trong bối cảnh ngành tôm liên tục đối mặt với các dịch bệnh nguy hiểm như EHP, EMS/AHPND hay TPD bùng phát tại nhiều quốc gia nuôi trọng điểm, nhu cầu về nguồn thức ăn tươi sống an toàn và ổn định cho tôm bố mẹ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Tôm bố mẹ của Tập đoàn Thăng Long sử dụng nguồn thức ăn dời 100% SPF nhập khẩu (Ảnh: Tập đoàn Thăng Long)
Nguồn dinh dưỡng quan trọng trong khẩu phần nuôi vỗ tôm bố mẹ
Từ lâu, con dời (giun nhiều tơ – polychaete) đã được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu thức ăn nhờ giá trị dinh dưỡng vượt trội, giàu protein, lipid có lợi, axit amin thiết yếu và đặc biệt là các axit béo EPA, DHA – những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sinh lý sinh sản của tôm.
Khác với các loại mồi tự nhiên như mực, hàu hay artemia, dời sở hữu cấu trúc dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu sinh hóa của tuyến sinh dục, giúp kích thích thành thục buồng trứng và cải thiện chất lượng ấu trùng. Các loài phổ biến như Perinereis nuntia, Marphysa spp., Dendronereis spp. chứa protein cao cùng nhiều hoạt chất sinh học quan trọng như progesterone, 17α-hydroxyprogesterone và prostaglandin E2 – những hormone điều hòa quá trình sinh sản ở động vật thủy sản. Nhờ đó, khi bổ sung thường xuyên, dời giúp tăng cường trao đổi chất, rút ngắn thời gian thành thục và nâng cao tỷ lệ đẻ.
Một nghiên cứu công bố năm 2025 cho thấy hai loài giun nhiệt đới Marphysa sp. và Halla sp. tại vùng biển đảo Hải Nam có hàm lượng dinh dưỡng ấn tượng: protein 59 – 64%, EAA 59 – 61% tổng axit amin, EPA 8,26 – 10,99% và DHA 2,57 – 5,68%. Đây là các chỉ số liên quan trực tiếp đến chất lượng trứng, sự phát triển phôi và sức khỏe ấu trùng.
Trong thực tế, các trại tôm bố mẹ tại Thái Lan, Ấn Độ và châu Âu đều xem dời là thành phần chiến lược trong khẩu phần dù chỉ chiếm 5 – 10% tổng thức ăn. Hiệu quả cải thiện chất lượng nauplii và PL giúp nâng cao giá trị thương mại tôm giống, tạo lợi thế cạnh tranh đáng kể.
Nhờ đặc tính dinh dưỡng độc nhất và tác động mạnh mẽ đến sinh lý sinh sản, con dời trở thành yếu tố không thể thay thế trong quy trình nuôi vỗ, góp phần tạo đàn tôm bố mẹ khỏe mạnh, thành thục tốt và ấu trùng chất lượng cao.
Bảng 1: Phân tích dung lượng thị trường

Nguồn thông tin: Trích từ báo cáo tham luận “Dời – Mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất tôm bố mẹ: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”, do ThS Nguyễn Công Hảo, Đồng sáng lập Công ty Oceana Việt Nam, trình bày tại hội nghị “Quản lý Thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản” ngày 21/11/2025 tại TP. HCM
Lỗ hổng an toàn sinh học từ dời tự nhiên
Phần lớn dời dùng trong sản xuất tôm giống hiện nay vẫn được khai thác tự nhiên, thiếu truy xuất nguồn gốc và kiểm soát dịch bệnh, tạo nguy cơ mang mầm bệnh sang tôm bố mẹ. Nhiều nghiên cứu gần đây cảnh báo dời có thể chứa và truyền các tác nhân nguy hiểm như virus đốm trắng (WSSV), EHP và Vibrio gây AHPND. Một số loài như Dendronereis spp. thậm chí được xác định là vật chủ nhân lên virus, nghĩa là vẫn khỏe mạnh nhưng mang tải lượng virus đủ lớn để lây nhiễm.
Dời ăn mùn hữu cơ, xác động vật và cả phân tôm, nên việc chúng nuốt phải mầm bệnh là điều không thể tránh khỏi. Khi được sử dụng làm thức ăn tôm bố mẹ hoặc tôm giống, toàn bộ mầm bệnh này có thể đi vào hệ tiêu hóa tôm, tạo ra nguy cơ lây nhiễm trực tiếp. Một số nghiên cứu cho thấy dời có thể chui xuống sâu 30 – 40 cm, nơi hóa chất khử trùng không thể tác động đến. Sau khi ao được “xử lý sạch”, người nuôi tưởng rằng mầm bệnh đã bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng dời còn sót lại dưới đáy vẫn có thể tiếp tục mang virus. Khi môi trường ao ổn định trở lại, dời trồi lên và trở thành nguồn lây nhiễm mới cho vụ nuôi tiếp theo.
Bảng 2: Một số nguồn gây nhiễm bệnh trên tôm

Nguồn số liệu: Khảo sát được thực hiện bởi ShrimpVet; Trích từ báo cáo tham luận “Dời – Mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất tôm bố mẹ: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”, do ThS Nguyễn Công Hảo, Đồng sáng lập Công ty Oceana Việt Nam, trình bày tại hội nghị “Quản lý Thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản” ngày 21/11/2025 tại TP. HCM
Kinh nghiệm quốc tế trong chủ động nuôi dời sạch bệnh
Nhóm đảo Lakshadweep (Ấn Độ) đang nổi lên như nguồn cung tiềm năng cho nghề nuôi dời (polychaetes) sạch bệnh phục vụ sản xuất thủy sản thương mại. Dời từ lâu là thức ăn tươi sống quan trọng cho tôm bố mẹ, nhưng nguồn khai thác tự nhiên thường mang nguy cơ ô nhiễm và mầm bệnh như virus đốm trắng (WSSV). Trong khi đó, nhu cầu dời toàn cầu ước tính 121.000 tấn/năm, riêng tại Ấn Độ, nhu cầu dời sạch phục vụ nuôi tôm bố mẹ Perinereis nuntia đã tăng mạnh, đạt khoảng 2.337 tấn mỗi năm (CAA 2023).
Viện NBFGR Ấn Độ đã triển khai mô hình sản xuất dời SPF bằng cách thu gom dời bản địa (Glycera, Ceratonereis, Neanthes, Marphysa…), sàng lọc mầm bệnh, nuôi trong môi trường kiểm soát và cho sinh sản nhân tạo. Các cá thể khỏe mạnh được nuôi đến thành thục, ghép đôi theo tỷ lệ 1 đực/1 – 2 cái và cho giao phối trong hệ thống nước sạch. Kết quả bước đầu cho thấy khả năng sản xuất dời nuôi sạch bệnh quy mô thương mại, mở ra cơ hội vừa cung cấp nguồn thức ăn an toàn cho trại tôm giống, vừa tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng đảo Lakshadweep.
Tại Hawaii, kinh nghiệm với con dời (polychaete) xoay quanh một bài toán rất rõ: không thể phụ thuộc mãi vào dời nhập khẩu, vừa đắt vừa tiềm ẩn rủi ro dịch bệnh. Mỗi năm, các công ty giống ở đây bán khoảng 400.000 tôm bố mẹ, trị giá khoảng 20 triệu USD, và phải nhập hơn 10 tấn dời biển đông lạnh (Glycera dibranchiata, Nereis virens) với chi phí trên 400.000 USD. Hawaii cũng không dám dùng dời sống rẻ tiền từ châu Á hay Trung Mỹ vì nguy cơ mang theo vi khuẩn, virus là quá lớn.
Cách mà Hawaii “xử lý bài toán dời” là chủ động nuôi dời bản địa trong điều kiện an toàn sinh học. Oceanic Institute chọn loài Marphysa sanguinea làm ứng viên chính vì kích thước lớn, palatability cao với tôm bố mẹ, sống khỏe trong nuôi và thành phần dinh dưỡng tốt. Họ xây dựng quần đàn giống sạch bệnh (âm tính với các tác nhân bệnh tôm), nghiên cứu sinh sản trong bể, thử nhiều loại nền đáy (cát, đá san hô, sỏi núi lửa) để tối ưu cả mật độ lẫn sinh khối.
Bước tiếp theo là đưa dời nuôi vào thử nghiệm thực chiến: so sánh tôm cái P. vannamei ăn M. sanguinea sống với tôm ăn N. virens đông lạnh nhập khẩu. Kết quả nghiêng hẳn về dời nuôi tại chỗ: số cái thành thục, số lần đẻ, tổng trứng và tổng nauplii đều cao hơn, tỷ lệ nở đạt 57% so với 40% ở lô đối chứng. Từ kinh nghiệm Hawaii có thể thấy rõ: giải pháp bền vững với dời không phải “cấm hay bỏ”, mà là nuôi chủ động, kiểm soát bệnh và thay dần dời nhập khẩu bằng nguồn dời sạch tại chỗ.
Những bài học từ Ấn Độ và Hawaii cho thấy một xu hướng rất rõ: các quốc gia nuôi tôm tiên tiến đang chuyển từ khai thác dời tự nhiên sang nuôi dời sạch bệnh trong môi trường kiểm soát. Đây không chỉ là giải pháp dinh dưỡng tối ưu cho tôm bố mẹ mà còn là “lá chắn” an toàn sinh học quan trọng, giúp ngành tôm giống duy trì sự ổn định trước nguy cơ dịch bệnh ngày càng phức tạp.
Với vị thế là một trong ba cường quốc xuất khẩu tôm của thế giới, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Trong khi các nước đã tiến xa trong nghiên cứu, nuôi và thương mại hóa dời sạch bệnh, thị trường Việt Nam vẫn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào dời tự nhiên, một rủi ro tiềm ẩn cho toàn bộ chuỗi giống.
Để ngành tôm phát triển bền vững, Việt Nam cần xem xét xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho dời sạch bệnh (SPF polychaetes), khuyến khích các mô hình nuôi dời quy mô nhỏ đến công nghiệp, kiểm soát chặt nguồn nhập khẩu và đưa dời vào danh mục quản lý an toàn sinh học, tương tự cách quản lý tôm bố mẹ. Chủ động được nguồn dời sạch không chỉ giúp giảm nguy cơ dịch bệnh mà còn góp phần nâng cao chất lượng tôm giống, yếu tố quyết định sức cạnh tranh của ngành tôm Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Hà My
- Tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi 10 tháng đầu năm 2025
- Nông dân Quảng Ninh: Biến đầm hoang thành trang trại tôm tiền tỷ
- Kết nối dữ liệu ngành tôm: Giải pháp then chốt để kiểm soát dịch bệnh
- Bệnh đường ruột trên tôm và biện pháp xử lý triệt để
- Aker QRILL Company: Bổ nhiệm hai nhân sự chiến lược tại Đông Nam Á
- De Heus và Minh Phú hợp tác chiến lược phát triển bền vững chuỗi giá trị ngành tôm Việt Nam
- Chủ động, nâng cao chất lượng nguồn giống: Chìa khóa giữ vững tăng trưởng bền vững
- An Giang ban hành lịch thời vụ thả tôm nước lợ năm 2026
- Ngành tôm Thái Lan: Đề xuất đưa phục hồi sản xuất vào “Chương trình nghị sự quốc gia”
- Indonesia nối lại xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ
Tin mới nhất
T3,23/12/2025
- Kiểm soát rủi ro từ dời tự nhiên: Chuẩn hóa nguồn thức ăn tôm bố mẹ
- Tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi 10 tháng đầu năm 2025
- Nông dân Quảng Ninh: Biến đầm hoang thành trang trại tôm tiền tỷ
- Kết nối dữ liệu ngành tôm: Giải pháp then chốt để kiểm soát dịch bệnh
- Bệnh đường ruột trên tôm và biện pháp xử lý triệt để
- Aker QRILL Company: Bổ nhiệm hai nhân sự chiến lược tại Đông Nam Á
- De Heus và Minh Phú hợp tác chiến lược phát triển bền vững chuỗi giá trị ngành tôm Việt Nam
- Chủ động, nâng cao chất lượng nguồn giống: Chìa khóa giữ vững tăng trưởng bền vững
- An Giang ban hành lịch thời vụ thả tôm nước lợ năm 2026
- Ngành tôm Thái Lan: Đề xuất đưa phục hồi sản xuất vào “Chương trình nghị sự quốc gia”
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Gần 500 hộ nuôi khẳng định hiệu quả Advance Pro – Tiến bộ kỹ thuật của Grobest
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân




















