Một thử nghiệm gần đây cho thấy rằng lựa chọn bột mì thay vì mật rỉ đường làm nguồn carbon cho hệ thống biofloc trong nuôi tôm giúp cải thiện tỷ lệ sống và tăng năng suất.
Công nghệ biofloc là kết quả của quá trình thử nghiệm và phát triển hệ thống ao nuôi được sục khí và khuấy đảo thường xuyên, không hoặc hạn chế thay nước. Cơ sở hình thành hệ thống này chính là các hạt floc. Hạt floc là khối kết dính của các loại vi khuẩn, tảo, động vật nguyên sinh, các mảnh vỡ của các phân tử hữu cơ và một số sinh vật khác. Vấn đề mấu chốt trong công nghệ biofloc là tạo điều kiện tối ưu để vi sinh vật dị dưỡng có lợi phát triển, hấp thụ amonium, tạo sinh khối làm thức ăn cho vật nuôi.
Để ngăn chặn sự đạt đỉnh của amoniac trong ao nuôi (chủ yếu bắt nguồn từ nitơ trong thức ăn), khi bắt đầu chu kỳ nuôi nên bắt đầu hệ thống biofloc bằng việc đảm bảo đủ carbohydrate. Carbon trong carbohydrate này cho phép vi khuẩn dị dưỡng sinh sôi và tổng hợp amoniac, do đó duy trì chất lượng nước. Việc bổ sung này cũng có thể mang lại chất lượng tôm tốt hơn vào cuối chu kỳ sản xuất.
TTCT được nuôi trong hệ thống biofloc. Ảnh: Thefishsite
Các nguồn carbon khác nhau đã được sử dụng để thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật trong biofloc, bao gồm mật rỉ đường, glycerol và glucose. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng việc sử dụng các nguồn carbon hữu cơ thúc đẩy sự phát triển của các cộng đồng vi khuẩn dị dưỡng có lợi. Mặc dù biofloc có thể mang lại hiệu quả về sản xuất và tính bền vững môi trường, tuy nhiên, việc duy trì chất lượng vi khuẩn trong hệ thống là một thách thức. Do đó, nếu không được quản lý chặt chẽ, lượng vi khuẩn có thể vượt quá mức tiêu chuẩn cho phép và gây hại cho tôm.
Thử nghiệm
Một thử nghiệm đã được thực hiện nhằm xác định nguồn carbon lý tưởng để sử dụng trong hệ thống biofloc. Thử nghiệm đã so sánh giữa bột mì và mật rỉ đường dựa trên các chỉ tiêu về chất lượng nước, năng suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn, thành phần floc, tỷ lệ sống tôm và cộng đồng vi sinh vật xung quanh.
Ấu trùng tôm thẻ chân trắng có trọng lượng trung bình (38,47 ± 5,8 mg mg) được thả với mật độ 200 con/m2, tôm được nuôi theo hệ thống biofloc trong 128 ngày. Các bể được sục khí liên tục. Tôm được cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 7 giờ, 10 giờ, 13 giờ và 15 giờ với thức ăn chứa 38% protein. Cho ăn khoảng 15% trọng lượng thân thời điểm bắt đầu thử nghiệm và giảm dần còn 2,5% ở giai đoạn cuối. Định kỳ 2 tuần/lần thực hiện cân tôm và kiểm tra tỷ lệ chết, từ đó làm cơ sở để điều chỉnh thức ăn phù hợp. Sau khi cho ăn, bột mì và mật rỉ đường đã được bổ sung vào hệ thống với tỷ lệ C:N là 15:1. Nghiên cứu được thực hiện tại trại sản xuất tôm giống của Damietta, Ai Cập. Thử nghiệm có sáu bể, có kích thước đồng nhất (3x10x1,2m) với tổng thể tích 36 m3, mỗi bể chứa 30 m3 nước biển đã lọc cát (độ mặn 32‰).
Kết quả chính
Phân tích chất lượng nước chỉ ra rằng sử dụng bột mì liên quan đến hàm lượng ôxy hòa tan cao hơn. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức về nồng độ amoniac, nitrit và pH. Tuy nhiên, sự gia tăng độ đục (64,27 NTU) và thể tích floc hình thành (18,40 ml/l) được ghi nhận ở nghiệm thức bổ sung mật rỉ đường.
Hiệu suất tăng trưởng, bao gồm trọng lượng thân cuối cùng (12,37 g), tăng trọng (12,34 g), tăng trọng trung bình hàng ngày (0,096 g/ngày), tăng trọng trung bình hàng tuần (0,68 ) và tốc độ tăng trưởng đặc biệt (4,7%). Chúng cao hơn đáng kể so với nghiệm thức sử dụng mật rỉ đường. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng, ở các nghiệm thức sử dụng bột mì cho tỷ lệ sống cao hơn (99%), sinh khối tôm cao nhất (71,16 kg). Đồng thời, bổ sung bột mì đã cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn, dẫn đến tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thấp hơn (1,37) và hiệu quả sử dụng protein cao hơn (1,92). Tương tự như vậy, thành phần dinh dưỡng của biofloc cũng như chất lượng thịt tôm tốt hơn nghiệm thức bổ sung mật rỉ đường. Về các thông số vi khuẩn trong nước nuôi, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng, tổng số vi khuẩn dị dưỡng là giống nhau giữa các nghiệm thức bột mì và mật rỉ đường, không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm.
Tuy nhiên, ở nghiệm thức sử dụng bột mì, tổng số vi khuẩn Vibrio (TVC) thấp hơn đáng kể (1,9 × 10^4 CFU/g) so với nghiệm thức bổ sung mật rỉ đường (1,32 × 10^5 CFU/g).
Thái Thuận
(Theo Thefishsite)
- Biofloc li>
- bột mì li>
- mật rỉ đường li> ul>
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Giá tôm càng xanh thương phẩm tăng mạnh từ đầu tháng 1/2025
- Brazil: Đình chỉ nhập khẩu tôm từ Ecuador
- Xuất khẩu tôm 2024: Con tôm vẫn giữ vững vị thế
- Sự cố ao nuôi: Phát hiện sớm qua những dấu hiệu đặc trưng
- Nông dân nuôi tôm xuất sắc: Công nghệ là “chìa khóa” thành công
- Bột trứng: Nguồn protein tiềm năng trong nuôi tôm
- Ninh Thuận: Mục tiêu sản xuất 50 tỷ tôm giống vào năm 2025
- Ảnh hưởng của 25-Hydroxyvitamin D3 trong khẩu ăn lên tăng trưởng, chuyển hóa canxi-phospho và khả năng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus Vannamei nuôi ở độ mặn thấp
- Ngành tôm miền Bắc: Tôm khó nuôi, người cạn vốn
Tin mới nhất
T6,28/03/2025
- TAURINE: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Di truyền tôm thẻ chân trắng: Xu hướng hiện tại và tương lai
- TPD trên tôm: Những hiểu biết trong chẩn đoán và phòng bệnh
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống