Bến Tre: Kết quả nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh

Thời gian qua, lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (NTTS) trong tỉnh được duy trì và phát triển khá ổn định, với hơn 50.000ha diện tích tiềm năng nuôi thủy sản. Đến cuối năm 2022, toàn tỉnh khai thác được diện tích nuôi thủy sản là 47.590ha; tổng sản lượng nuôi đạt 310.015 tấn. Trong đó, các đối tượng chủ lực gồm tôm nước lợ 83.100 tấn, nhuyễn thể 14.900 tấn, cá tra 203.000 tấn, trên 90% sản lượng nuôi có giá trị kinh tế cao, phục vụ chế biến xuất khẩu. Toàn tỉnh có 13 nhà máy chế biến thủy sản phục vụ xuất khẩu với công suất thiết kế hơn 150 ngàn tấn. Sản lượng xuất khẩu thủy sản năm 2022 tăng 14,02%. Hiện tỉnh đang kêu gọi đầu tư nhà máy chế biến tôm để góp phần tiêu thụ sản phẩm tôm nguyên liệu của tỉnh.

Khảo sát mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao tại xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú.

Nuôi tôm công nghệ cao

Theo Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Văn Buội, tỉnh đã xác định thủy sản là một trong 2 ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, lấy đối tượng xuất khẩu làm chủ lực phát triển. Hiện nay, tỉnh tập trung 5 đối tượng nuôi chủ yếu: tôm chân trắng, tôm sú, cá tra, nghêu và tôm càng xanh. Ngoài ra, còn chú ý phát triển một số đối tượng nuôi khác như: cá chẽm, cá điêu hồng, cá rô phi dòng Gift, cua biển và sò huyết. Trong cơ cấu diện tích NTTS của tỉnh thì nuôi tôm nước lợ chiếm khoảng 76%, trong năm 2022 với 36.300ha nuôi tôm nước lợ. Trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh thả xoay vòng là 12.500ha (tôm sú gần 500ha, tôm thẻ chân trắng hơn 12.000ha), còn lại là diện tích nuôi tôm lúa, nuôi quảng canh, xen rừng khoảng 24.000ha. Năng suất nuôi tôm nước lợ thâm canh, bán thâm canh ngày càng được nâng cao như tôm chân trắng đạt từ 12 – 15 tấn/ha, tôm sú từ 6 – 8 tấn/ha; quảng canh, tôm lúa, tôm rừng đạt 250kg/ha. Ước tính giá trị ngành tôm nước lợ của tỉnh chiếm 53% so với tổng giá trị mang lại trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Theo tính toán của Chi cục Thủy sản, giá trị ngành tôm biển chiếm 6.321/11.931 tỷ đồng.

Trong vài năm gần đây, mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao (CNC) được đánh giá mang lại hiệu quả cao. Một trong những cột mốc đánh dấu sự phát triển về loại hình nuôi tôm nước lợ là sự chuyển đổi nhanh từ hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh truyền thống sang nuôi tôm ứng dụng CNC trên địa bàn 3 huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú. Với diện tích ban đầu từ 550ha năm 2018, đến cuối năm 2022 toàn tỉnh đạt 2.567ha. Năng suất bình quân từ 60 – 70 tấn/ha mặt nước, lợi nhuận trung bình từ 700 – 800 triệu đồng/vụ nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Sản lượng nuôi tôm CNC đạt 42.000 tấn, chiếm 50% tổng sản lượng nuôi tôm nước lợ của tỉnh. Ưu điểm của mô hình này là đầu tư kín, cách ly được môi trường dịch bệnh giai đoạn đầu, nuôi mật độ cao, quản lý tốt được thức ăn và môi trường, nâng cao tỷ lệ sống, nuôi tôm lên cỡ lớn, tạo điều kiện tăng năng suất, sản lượng trên một đơn vị diện tích và đặc biệt là thuận lợi cho việc xử lý chất thải trong vụ nuôi.

Hoạt động sản xuất con giống ngày càng được nâng cao về chất lượng. Toàn tỉnh có 56 trại sản xuất ương dưỡng giống tôm, với tổng công suất thiết kế ước tính khoảng 6 tỷ con giống/năm, trong đó có 3 trại sản xuất giống quy mô lớn.

Đầu tư hạ tầng nuôi

Thời gian qua, phần lớn đầu tư hạ tầng để phát triển cho nuôi tôm biển ứng dụng CNC được sử dụng từ các công trình giao thông, thủy lợi, điện đã đầu tư cho vùng nuôi tôm thâm canh tập trung trước đây. Tỉnh đang triển khai 3 dự án ở huyện Bình Đại và Ba Tri. Cụ thể, dự án Đầu tư xây dựng công trình hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản huyện Bình Đại, với tổng mức đầu tư 83 tỷ đồng, đã được hoàn thành và đang tiến hành bàn giao công trình đưa vào sử dụng; dự án Đầu tư hạ tầng kỹ thuật vùng nuôi tôm biển ứng dụng CNC huyện Bình Đại, với tổng mức đầu tư 80 tỷ đồng; dự án Hạ tầng vùng nuôi tôm ứng dụng CNC huyện Ba Tri, với tổng mức đầu tư 327 tỷ đồng.

Về hạ tầng điện phục vụ cho hoạt động nuôi tôm CNC đang tiếp tục hoàn chỉnh, các khu nuôi tôm CNC quy mô lớn do các doanh nghiệp chủ động đầu tư. Đối với các vùng nuôi tôm quy mô tập trung, Sở NN&PTNT phối hợp với Sở Công Thương đã đề xuất đến Cục Điện lực và năng lượng tái tạo xây dựng các trạm biến áp 110KV trên địa bàn 3 huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú.

Các hoạt động dịch vụ hậu cần phát triển khá sôi nổi và đa dạng, đáp ứng nhu cầu phát triển nuôi tôm CNC. Toàn tỉnh có hơn 668 đại lý kinh doanh thuốc thức ăn, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong NTTS được phân bố trên địa bàn 4 huyện Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú và Giồng Trôm. Có 1 nhà máy sản xuất thức ăn tôm công suất thiết kế ước tính 249.600 tấn/năm; 12 doanh nghiệp sản xuất thức ăn bổ sung, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường; hệ thống thương lái thu mua tôm được phủ khắp trên địa bàn 3 huyện biển.

Phần lớn nguồn vốn để phát triển nuôi tôm CNC từ doanh nghiệp và hộ dân với nhu cầu vốn để sản xuất nuôi tôm CNC ước tính 2.053 tỷ đồng. Trên cơ sở các chính sách về vay vốn để nuôi tôm CNC, Sở NN&PTNT đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Bến Tre hàng tháng, quý, năm đề nghị địa phương đề xuất nhu cầu vay vốn đối với các hợp tác xã, tổ chức, cá nhân. Qua đó, giai đoạn 2021 – 2022, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại cho vay 934 tỷ đồng đối với các doanh nghiệp, hộ nuôi tôm ứng dụng CNC trên địa bàn tỉnh.

Thu Hằng

Theo báo Đồng Khởi

“Hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi tôm CNC nhiều nơi chưa hoàn thiện, hệ thống kênh cấp, thoát nước chưa đảm bảo gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và kiểm soát dịch bệnh. Các tổ hợp tác, hợp tác xã chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu tổ chức và hiệu quả sản xuất nhằm thúc đẩy sự gắn kết giữa người nuôi với nhau, với các khâu của chuỗi giá trị như cung ứng vật tư đầu vào, thu gom chế biến, tiêu thụ và với các cấp, ngành”.

(Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Văn Buội)

Tin mới nhất

T7,27/04/2024