Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn nuôi tôm

Người nuôi tôm nên lựa chọn loại thức ăn đảm bảo có thành phần phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của tôm sẽ giúp con tôm tăng trưởng nhanh, hiệu quả chăn nuôi cao.

Chất đạm (protein)

Theo các chuyên gia dinh dưỡng động vật thủy sản, protein là nguồn năng lượng chính trong thành phần dinh dưỡng của tôm. Ở từng loại tôm, nhu cầu dinh dưỡng sẽ khác. Đối với tôm thẻ chân trắng, nhu cầu protein chiếm khoảng 30 – 35% và thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng của tôm. Cụ thể, từ khi thả nuôi đến cỡ 3 g/con, sử dụng thức ăn có protein dưới 40%; từ 3 – 8 g, thức ăn có protein khoảng 38%; từ 8 g đến xuất bán sử dụng thức ăn có protein từ 35 – 38%. Đối với tôm sú, từ khi thả đến tôm đạt cỡ 5 g, thức ăn cần hàm lượng protein dưới 45%; khoảng 5 – 10 g/con, thức ăn cần hàm lượng protein từ 42 – 45%; từ 10 g đến khi thu hoạch dùng thức ăn chứa 40 – 42% protein.

Người chăn nuôi cần chọn các nguyên liệu gồm: bột cá, bột tôm, bột mực để làm thức ăn cho tôm, vì chúng có hàm lượng protein tới 45 – 80%, ngoài ra chúng cũng chứa đủ các acid amin cần thiết, chứa nhiều acid béo không no (HUFA) thiết yếu và phù hợp với hệ tiêu hóa của tôm nuôi.

Lipid

Lipid tham gia cấu tạo nên màng tế bào cơ thể tôm, giúp hòa tan các vitamin A, D, E, K, hydrocarbon; có khả năng hoạt hóa enzym và là thành phần chính của nhiều steroid hormon. Thường trong thức ăn thủy sản hàm lượng lipid chiếm 10 – 25%. Tuy nhiên, với tôm nuôi, nếu năng lượng trong thức ăn quá cao làm giảm khả năng hấp thụ thức ăn và chất đạm tiêu hóa không đủ để tôm phát triển, làm giảm tốc độ tăng trưởng và tăng tỷ lệ tử vong. Do tôm không có muối mật và acid mật nên hạn chế việc tiêu hóa lipid. Vì vậy, hàm lượng lipid trong thức ăn chăn nuôi luôn đảm bảo dưới 10%.

Chất xơ

Chất xơ đóng vai trò quan trọng, nó là chất nền cho vi sinh vật sống trong ống tiêu hóa. Ngoài ra, chất xơ còn chứa một lượng nước nhất định có tác dụng duy trì dịch ruột và tăng quá trình hấp thu dưỡng chất. Tuy nhiên, tôm có ruột, dạ dày ngắn nên khả năng tiêu hóa chất xơ kém. Vì vậy, hàm lượng chất xơ bổ sung vào thức ăn tôm hợp lý là khoảng 4 – 5%, thường là từ nguồn bột cỏ hoặc rong biển.

Vitamin

Đối với tôm nuôi, vitamin có giá trị dinh dưỡng rõ rệt, nhất là vitamin C giúp giảm sốc và tăng sức đề kháng. Thiếu vitamin C gây nên bệnh chết đen ở tôm. Hầu hết tôm cá đều không có khả năng tổng hợp vitamin C mà hấp thu chủ yếu từ thức ăn. Ngoài ra, trong thức ăn cần có thành phần các loại vitamin khác như vitamin A, D, E, và K. Tôm cá thiếu vitamin A sẽ thiếu máu, xuất huyết ở mắt, mang, thận và thay đổi màu sắc cơ thể. Thiếu vitamin D, tôm cá sẽ bị còi cọc. Thiếu vitamin K, máu không đông, sinh trưởng giảm.

Khoáng chất

Tôm có nhu cầu khoáng đa lượng (chủ yếu là calci, phosphor) cao hơn một số động vật thủy sản nuôi khác do thường xuyên thực hiện quá trình lột xác. Trong thực tế, tôm có thể hấp thu trực tiếp khoáng qua mang từ môi trường nước, nên nhu cầu khoáng cho tôm phụ thuộc vào khoáng môi trường sống của tôm. Vì vậy, trong thức ăn tôm, mức calci bổ sung tối đa là 2,3%, phosphor 1 – 2%, natri clorua 1 – 2%. Ngoài ra, trong thức ăn tôm cần sự có mặt của một số loại khoáng vi lượng, nhưng với lượng rất ít để tạo ra enzym, hormon, điều hòa quá trình sinh tổng hợp protein.

(Theo Khoahocphothong.com)