[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Bổ sung rong sụn (Kappaphycus alvarezii) với nồng độ 15 g/kg vào thức ăn có thể bảo vệ tôm chống lại Vibrio harveyi và tăng tỷ lệ sống của tôm sau khi nhiễm mầm bệnh.
Rong sụn (Kappaphycus alvarezii) – Ảnh: ST
Nghiên cứu bao gồm 4 nghiệm thức bổ sung chiết xuất rong sụn đỏ với các nồng độ: 0 g/kg, 5 g/kg, 10 g/kg và 15 g/kg. Trong 30 ngày thí nghiệm cho ăn, tôm của mỗi nhóm thử nghiệm được cho ăn bằng chế độ ăn đối chứng (thương mại) hoặc một trong ba chế độ ăn thử nghiệm bằng rong sụn khác nhau ở mức 10% trọng lượng cơ thể (BW) mỗi ngày. Tổng lượng thức ăn hàng ngày được chia thành 4 bữa bằng nhau vào 09h, 12h, 15h và 18h. Mỗi chế độ ăn được thử nghiệm với bốn lần lặp lại.
Sau 30 ngày thử nghiệm cho ăn, các nhóm được cho ăn chế độ ăn bổ sung rong biển cho thấy tốc độ tăng trưởng riêng thấp hơn so với nhóm đối chứng (P< 0.05). Tỷ lệ chuyển hóa thức ăn (FCR) của nhóm thử nghiệm khẩu phần ăn 5 g/kg rong biển được tìm thấy thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể được tìm thấy về FCR giữa các nhóm điều trị bằng chế độ ăn rong biển khác (10 g/kg hoặc 15 g/kg) so với chế độ ăn đối chứng (P>0,05). Tỷ lệ sống của tôm nằm trong khoảng từ 75% đến 86%, trong khi tổng sinh khối cuối cùng trung bình của tôm nằm trong khoảng từ 3,5g đến 4,7g.
Sau thí nghiệm cho ăn, thử nghiệm thử thách vi khuẩn bằng cách sử dụng Vibrio harveyi gây bệnh được thực hiện trên tôm từ 15 g/kg chế độ ăn rong biển.
Tôm từ nhóm xử lý chế độ ăn 15 g/kg của thử nghiệm cho ăn được chia thành hai nhóm: (1) duy trì chế độ ăn 15 g/kg rong biển trước đó, sau đó được thử thách hoặc không thử thách; và (2) chuyển sang chế độ ăn đối chứng, sau đó thử thách hoặc không thử thách. Ngoài ra, nhóm đối chứng từ thử nghiệm cho ăn được duy trì chế độ ăn đối chứng và được chia thành hai nhóm, được thử thách hoặc không được thử thách. Tổng cộng có sáu nhóm thử nghiệm đã được thử nghiệm trong quy trình thử thách vi khuẩn.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống cao hơn đáng kể khoảng 10% (73,3 ± 1,6%) (P< 0,05) sau thử thách Vibrio khi so sánh với nhóm thử nghiệm, tỷ lệ sống của nhóm đối chứng ở cuối đợt cảm nhiễm (63,8 ± 1,6%). Ngoài ra, sự bảo vệ vẫn được quan sát thấy ở nhóm được cho ăn với chế độ ăn 15 g/kg rong biển trong quá trình cho ăn. Không có sự khác biệt về trọng lượng cơ thể cuối cùng hoặc tốc độ tăng trưởng cụ thể của tôm giữa tất cả các nhóm thử nghiệm khác nhau do thử thách Vibrio.
Tóm lại, không quan sát thấy tác dụng tăng cường tăng trưởng của các sản phẩm rong biển trong nghiên cứu này, điều này có thể là do đặc tính dinh dưỡng khá mất cân bằng (năng lượng/mức lipid trong chế độ ăn quá mức) của chế độ ăn bổ sung rong biển. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng việc bổ sung rong sụn đỏ có thể bảo vệ tôm chống lại Vibrio harveyi và làm tăng tỷ lệ sống của tôm sau khi bị nhiễm mầm bệnh.
Khánh Ngọc (Lược dịch)
- Kappaphycus alvarezii li>
- rong sụn li>
- Vibrio harveyi li> ul>
- Bột đậu nành và bột gà: Thay thế bột cá trong thức ăn nuôi tôm
- Startup Singapore nuôi trồng thủy sản không dùng kháng sinh
- Tiên Yên: Đảm bảo các điều kiện xuống giống thủy sản vụ xuân hè
- Kinh tế tuần hoàn trong thủy sản: Góc nhìn từ ngành tôm
- Một số biện pháp xử lý chất thải trong nuôi tôm
- Quảng Trị: Chủ động phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi
- Cả nước có 32 cơ sở sản xuất tôm an toàn dịch bệnh
- Xây dựng chế độ ăn cân bằng dinh dưỡng bằng protein thủy phân
- Phú Yên: Hướng đến xuất khẩu tôm hùm theo đường chính ngạch
- Đa lợi ích từ ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy sản
Tin mới nhất
T7,04/05/2024
- Bột đậu nành và bột gà: Thay thế bột cá trong thức ăn nuôi tôm
- Startup Singapore nuôi trồng thủy sản không dùng kháng sinh
- Tiên Yên: Đảm bảo các điều kiện xuống giống thủy sản vụ xuân hè
- Kinh tế tuần hoàn trong thủy sản: Góc nhìn từ ngành tôm
- Một số biện pháp xử lý chất thải trong nuôi tôm
- Quảng Trị: Chủ động phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi
- Cả nước có 32 cơ sở sản xuất tôm an toàn dịch bệnh
- Xây dựng chế độ ăn cân bằng dinh dưỡng bằng protein thủy phân
- Phú Yên: Hướng đến xuất khẩu tôm hùm theo đường chính ngạch
- Đa lợi ích từ ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Long Thăng: Triển khai chương trình “Tôm to xế xịn 2023”
- Hiệu quả vượt trội với mô hình nuôi cá điêu hồng Thăng Long
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt