[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Nghiên cứu mới cho thấy rằng việc cân bằng mức độ thực vật phù du trong ao nuôi tôm có thể ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn Vibrio, bao gồm cả Vibrio parahaemolyticus – tác nhân gây bệnh EMS/AHPND.
Cân bằng quần thể thực vật phù du trong ao nuôi tôm có thể giúp ngăn chặn mầm bệnh
Dịch bệnh dường như là một thách thức không hồi kết đối với ngành nuôi tôm ở Indonesia. Các bệnh do virus xảy ra trên tôm như: hội chứng đốm trắng (WSSV), hoại tử cơ truyền nhiễm (IMNV) hoặc hội chứng taura (TSV), cũng như các bệnh do vi khuẩn đều gây rắc rối cho người nông dân. Vibrio parahaemolyticus vốn được biết đến là tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) hay còn gọi là hội chứng tôm chết sớm (EMS) thời gian gần đây đang trở thành mối lo ngại của người nuôi.
Một trong những cách hiệu quả nhất liên quan đến việc giữ thực vật phù du ở mức tối ưu để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn Vibrio. Theo chuyên gia bệnh tôm của Cục Thú y CPP, Heny Budi Utari, ngoài việc tạo ra oxy và là nhà sản xuất đầu tiên trong chuỗi thức ăn, thực vật phù du còn cung cấp trong nước giúp tôm con thoải mái và khỏe mạnh. Vì chúng đến từ các trại sản xuất giống được kiểm soát rất chặt chẽ, tôm giống có thể bị căng thẳng khi được chuyển đến ao. Nếu môi trường không thoải mái cho tôm, hệ thống miễn dịch yếu và điều này có thể bị các vi khuẩn gây bệnh cơ hội như Vibrio xâm nhập.
Một nghiên cứu của Kamilia & cs. cho thấy mật độ và thành phần của thực vật phù du trong ao có tác động tuyến tính đến năng suất ao. Nghiên cứu cho thấy các ao có lượng thực vật phù du cao hơn có năng suất cao hơn các ao có lượng thấp hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ thực vật phù du lên tới 220.000 tế bào/ml vẫn cho thấy tác động tích cực. Trong thực vật phù du ngoài đồng ruộng thường dao động từ 500.000 đến 1 triệu tế bào/ml. Thành phần loài thực vật phù du càng đa dạng thì càng hạn chế sự phát triển của Vibrio.
Trong một hội thảo trực tuyến gần đây do Diễn đàn tôm Indonesia thực hiện, một nông dân nuôi tôm kỳ cựu, Hardi Pitoyo, cũng đã nói về tầm quan trọng của sự cân bằng thực vật phù du. Tảo cát thuộc lớp Bacillariophyceae và tảo lục lam (BGA) thuộc tảo lam là hai nhóm sinh vật phù du mà ông nghiên cứu. Ông nói rằng tảo cát có hàm lượng protein tốt, nhưng chết nhanh vì vậy nên bổ sung BGA. Tuy nhiên, không nên để tảo lục lam BGA chiếm ưu thế, vì nó có thể gây độc cho tôm.
Những thực vật phù du này sau đó phải được duy trì ở một khối lượng và thành phần loài tối ưu. Số lượng sinh vật phù du nở hoa hoặc giảm mạnh có thể làm cho các thông số nước khác dao động mạnh. Việc thực vật phù du chết hàng loạt có thể khiến Vibrio phát triển mạnh. Nó cũng có thể gây stress cho tôm và khiến Vibrio dễ dàng lây nhiễm cho chúng và tấn công hệ thống tiêu hóa. Thức ăn có thể được bổ sung men vi sinh như Bacillus và Lactobacillus hoặc vitamin C và các sản phẩm miễn dịch khác để cải thiện sức khỏe của tôm. Sau đó, nên tạo sự cân bằng cho thực vật phù du bằng một số biện pháp như bổ sung CaCO 3 hoặc CaMg(CO3)2 , bột đậu nành lên men và vi khuẩn nitrat hóa – để tạo điều kiện nước hỗ trợ thực vật phù du phát triển.
Ngọc Anh (Lược dịch)
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt