Bí ngô: Cải thiện các chỉ số tăng trưởng và màu sắc cơ thể tôm

[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Bổ sung bã bí ngô vào thức ăn tôm giúp cải thiện các chỉ số tăng trưởng, hàm lượng carotenoid tổng số và màu sắc cơ thể tôm.

Bí ngô Nhật Bản

Bí ngô Nhật Bản

Trong những năm gần đây, với sự xuất hiện của thuật ngữ “bền vững”, các phụ phẩm đã được sử dụng thành công để làm thức ăn cho cá và tôm. Bí ngô giàu vitamin và khoáng chất, các sản phẩm phụ của bí ngô như lá, hoa, hạt và bã, chứa các hợp chất chống oxy hóa như polyphenol và flavonoid được biết đến với hoạt tính sinh học cao. Các bộ phận của bí ngô là nguồn cung cấp khoáng chất, hợp chất phenolic, flavonoid và carotenoids quan trọng.

Một số nghiên cứu đã khám phá tiềm năng sử dụng các phụ phẩm làm nguyên liệu thay thế dinh dưỡng cho tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu liên quan đến việc đưa phụ phẩm bí ngô vào dinh dưỡng của sinh vật dưới nước. Từ góc độ dinh dưỡng, hạt bí ngô có thể giúp cải thiện hiệu suất tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá. Nhưng chưa có có thông tin về việc đưa các sản phẩm phụ bí ngô vào dinh dưỡng tôm. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của việc bổ sung hạt bí ngô Nhật Bản và bã đậu lên dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại Trạm Nuôi trồng Thủy sản Biển (EMA) của Viện Hải dương học (IO) thuộc Đại học Liên bang Rio Grande (FURG), Brazil. Các sản phẩm phụ từ bí ngô Nhật Bản được lấy từ Massas Nona Oliva (Vacaria, RS, Brazil). Hạt được tách thủ công, sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60o C trong 24 giờ, nghiền trong máy nghiền rôto và sàng (lưới 28) để thu được bột.

 Chế độ thử nghiệm

5 khẩu phần thử nghiệm đã được thiết lập, trong đó:

+ Nghiệm thức đối chứng: Không bổ sung hạt bí ngô hoặc bột bã đậu.

+ Nghiệm thức 1 (PS50): Bổ sung 50 g/kg bột hạt bí ngô.

+ Nghiệm thức 2 (PS100): Bổ sung 100 g/kg bột hạt bí ngô. + Nghiệm thức 3 (PP50): Bổ sung 50 g/kg bột bã bí ngô.

+ Nghiệm thức 4 (PP100): Bổ sung 100 g/kg bột bã bí ngô.

Thiết kế thử nghiệm

Tôm thẻ chân trắng (P. vannamei) giống với trọng lượng trung bình 0,60 ± 0,01g được chuyển vào 15 bể hình tròn với thể tích mỗi bể là 310L, được sắp xếp theo thứ tự năm phương pháp thử nghiệm với ba lần lặp lại, phân bố 30 con/bể. Trong thử nghiệm cho ăn kéo dài 60 ngày, tôm được cho ăn 2 lần/ ngày (8h và 16h).

Khi kết thúc thí nghiệm, tất cả tôm được nhịn ăn trong 24 giờ, làm chết trên đá và cân để đánh giá hiệu suất tăng trưởng. Các thông số tăng trưởng được đánh giá là tăng trọng (WG), tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein (PER), hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), tỷ lệ sống, tỷ lệ tăng trưởng cụ thể (SGR) và tăng trọng tương đối (RWG).

Kết quả nghiên cứu

 Hiệu suất tăng trưởng

Hiệu suất tăng trưởng của tôm được cho ăn khẩu phần chứa hạt bí ngô Nhật Bản (Bảng 1) cho thấy sự khác biệt đáng kể (p<0,05) về trọng lượng cuối cùng (FW), tăng trọng (WG), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), hệ số tăng trưởng cụ thể (SGR) và mức tăng cân tương đối (RWG) vào cuối thời gian thử nghiệm. Trong chế độ ăn bằng hạt bí ngô, nghiệm thức đối chứng hiệu quả hơn đối với FW, WG, FCR, SGR và RWG, cho thấy hạt bí ngô không phải là nguyên liệu hữu hiệu để cải thiện các thông số tăng trưởng của tôm.><0,05) về trọng lượng cuối cùng (FW), tăng trọng (WG), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), hệ số tăng trưởng cụ thể (SGR) và mức tăng cân tương đối (RWG) vào cuối thời gian thử nghiệm. Trong chế độ ăn bằng hạt bí ngô, nghiệm thức đối chứng hiệu quả hơn đối với FW, WG, FCR, SGR và RWG, cho thấy hạt bí ngô không phải là nguyên liệu hữu hiệu để cải thiện các thông số tăng trưởng của tôm.

Trong nghiệm thức sử dụng bã bí ngô, tôm ở nghiệm thức PP50 cho thấy FCR tốt hơn (1,82 ± 0,12). Tôm từ PP50 và PP100 cũng cho thấy PER tốt hơn so với tôm được cho ăn bằng chế độ ăn đối chứng (p<0,05). Không có sự khác biệt thống kê (p>>0,05) được quan sát thấy trong các thông số hiệu suất được đánh giá khác.

Bảng 1. Hiệu suất tăng trưởng tôm trong các chế độ thử nghiệm

Tổng hoạt tính chống oxy hóa

Tổng hoạt tính chống oxy hóa trong gan tụy vẫn giữ nguyên ở cả chế độ ăn bột hạt bí ngô và bột bã bí ngô (p > 0,05). Hoạt tính chống oxy hóa cao hơn được quan sát thấy ở thức ăn PS50 và PS100 (lần lượt là 45,23 và 49,31%). Mặc dù hoạt động chống oxy hóa tăng lên trong chế độ ăn có hạt bí ngô, tuy nhiên cơ cho thấy hoạt động chống oxy hóa giảm ở tôm được cho ăn PS50 và PS100 (lần lượt là 10,53 và 9,13%).

Xu hướng ngược lại được quan sát thấy ở các nghiệm thức bột bã bí ngô (PP). Thức ăn PP100 làm tăng tổng hoạt tính chống oxy hóa (54,02%). Hơn nữa, khi bổ sung bã bí ngô trong khẩu phần ăn tăng lên, cơ cho thấy tổng chất chống oxy hóa tăng (tương ứng là 16,80% và 16,59%).

Tổng hàm lượng Carotenoid (TCC)

Hàm lượng carotenoid cao được tìm thấy trong hạt bí ngô (0,72 ± 0,03 µg/g) và bã đậu (1,25 ± 0,04 µg/g) nên hàm lượng carotenoid tổng số ở cả hai loại hạt này đều cao hơn thức ăn cho hạt bí ngô (Hình 1A) và bã bí ngô (Hình 1B) (p< 0,05). Không có sự khác biệt đáng kể về tổng hàm lượng carotenoid ở tôm được cho ăn chế độ ăn PS (p>0,05) (Hình 1A). Tuy nhiên, tổng hàm lượng carotenoid tăng lên ở tôm được cho ăn khẩu phần PP khi tỷ lệ bã bí ngô trong khẩu phần tăng lên (0,162 ± 0,04 đến 0,219 ± 0,03 và 0,278 ± 0,01 µg/g, trong nhóm đối chứng, PP50 và PP100, tương ứng) (Hình 1B).

Hình 1. Tổng hàm lượng carotenoid (TCC) của thức ăn và tôm được cho ăn khẩu phần bao gồm hạt bí ngô (A) và bã đậu (B)

Thông số màu

Trong các nghiệm thức đánh giá việc đưa hạt bí vào khẩu phần ăn của tôm, không có sự khác biệt đáng kể (p>0,05) về thông số độ sáng và màu xanh lá, ở tôm tươi hoặc tôm nấu chín. Màu hơi vàng và độ bão hòa lớn được quan sát thấy ở tôm tươi được nuôi bằng PS100 (p<0,05). Góc màu trở nên hơi vàng ở tôm được cho ăn khẩu phần bao gồm hạt bí ngô, cho cả tôm tươi và tôm chín.><0,05). Góc màu trở nên hơi vàng ở tôm được cho ăn khẩu phần bao gồm hạt bí ngô, cho cả tôm tươi và tôm chín.

Trong các nghiệm thức đánh giá việc sử dụng bã bí ngô, không có sự khác biệt (p>0,05) về độ nhạt, cả ở tôm tươi và tôm chín. Màu đỏ, màu hơi vàng và độ bão hòa rõ ràng hơn khi tôm được cho ăn PP100, ở cả tôm tươi và tôm chín (p<0,05 ). Không có sự khác biệt về góc màu được quan sát giữa các nghiệm thức (p><0,05). Không có sự khác biệt về góc màu được quan sát giữa các nghiệm thức (p>0,05). Màu sắc tăng lên ở tôm được cho ăn nhiều hạt bí ngô (PS100) và bã đậu (PP100) có thể liên quan đến nồng độ tổng carotenoid cao hơn trong các chế độ ăn này, cũng như trong cơ thể tôm

Kết luận

Việc đưa hạt bí ngô vào chế độ ăn của tôm thẻ chân trắng làm giảm các chỉ số tăng trưởng và tạo ra tác dụng chống oxy hóa trên cơ tôm. Tuy nhiên, thân tôm có màu sắc cải thiện sau khi nấu. Việc bổ sung bã bí ngô đã cải thiện các chỉ số tăng trưởng, hàm lượng carotenoid tổng số và màu sắc cơ thể tôm.

Dựa trên những kết quả này, việc đưa hạt bí ngô vào chế độ ăn là không khả thi về mặt dinh dưỡng. Cần có các nghiên cứu mới đánh giá việc đưa hàm lượng hạt bí ngô thấp hơn vào chế độ ăn của tôm. Bã bí ngô Nhật Bản có thể được đưa vào khẩu phần ăn ở mức 100 g/kg và cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá khả năng đưa vào ở mức độ cao hơn.

Bảo Châu (Lược dịch)