Bệnh còi MBV

1.Tác nhân

Do  Penaeus monodon baculovirus.

Loài nhiễm bệnh: Chủ yếu gây bệnh trên P.Monodon và P.merguiensis, nhiễm trên tôm thẻ chân trắng nhưng không thể hiện dấu hiệu bệnh. Bệnh xuất hiện ở giai đoạn mysis, tôm giống, tôm ấu niên và cả tôm trưởng thành. MBV ký sinh trên tế bào biểu mô gan tụy hình ống và tế bào ruột giữa, tạo một hoặc nhiều thể ẩn bên trong tế bào nhiễm.

Bệnh chỉ lan truyền theo chiều ngang do bố mẹ mang bệnh đi phân có mầm bệnh vào nước và lây cho ấu trùng hoặc do tôm khỏe ăn tôm nhiễm MBV, tiếp xúc với phân tôm chứa mầm bệnh, tiếp xúc với mầm bệnh trong nước hoặc dưới đáy ao đất.

 

2.Tác hại: Phá hủy mô gan tụy và màng ống tiêu hóa

Vào giai đoạn đầu sau khi tế bào vật chủ  nhiễm MBV nhân tế bào vẫn bình thường, chỉ có biến đổi nhỏ ở tế bào chất. Sau đó nhân tế bào sưng lên, xuất hiện thể ẩn trong nhân. Tế bào chất mất dần chức năng và hình thành giọt mỡ. Cuối cùng, nhân tế bào bệnh tăng lên gấp 2 lần đường kính bình thường và tăng 6 lần thể tích, bên trong nhân có một đến nhiều thể ẩn.

Mức độ nhiễm bệnh ở tôm hoang khoảng 1% trong khi ở tôm nuôi từ 20-100%. Chủ yếu gây chết ở giai đoạn ấu trùng Zoea, mysis và tôm giống nhỏ. Nhiễm tỉ lệ cao ở tôm nuôi ấu niên và trưởng thành nhưng rất ít gây chết.

MBV nhiễm năng trên tôm sẽ gây chậm lớn nên thường gọi bệnh MBV là bệnh còi.

 

3.Chẩn đoán

Dấu hiệu bệnh lý:

Thông thường tôm nuôi ngoài ao không có dấu hiệu bệnh lý khi nhiễm MBV. Khi tôm bị stress, biểu hiện một vài dấu hiệu nghi ngờ tôm nhiễm MBV như sau:

  • Chậm lớn
  • Tôm sú có màu từ xanh nhợt tới xanh dương
  • Ăn yếu
  • Phân đàn rất cao
  • Nhiễm ngoại kí sinh ( tảo bám, protozoa)
  • Gan vàng hoặc nâu đỏ

Trực tiếp bằng kính hiển vi quang học:

Thể ẩn của MBV có thể quan sát dưới kính hiển vi. Thể ẩn xuất hiện càng nhiều khi tôm giống bị căng thẳng.

  • Trên gan tuy:

Dùng kim giải phẫu (no 1) cắt nhỏ gan tụy. Đặt gan tụy trong một giọt nước trên slide, thêm 1 giọt nhỏ 0,1% malachite green. Ép mẫu gan với lamen, kiểm tra nhiều lần trong 5 phút thể ẩn của Baculovirus hoặc nhân tế bào gan tụy sưng phồng. Thể ẩn MBV có hình cầu ( đơn hoặc thành cụm), hơi khúc xạ, bắt màu hơi xanh, đường kính từ 0,1 đến gần 20 μm. Thể ẩn của virus bắt màu đậm hơn so với những phần có hình dạng tương tự khác như nhân tế bào bình thường của vật chủ, nuclteoti, hạt tiết, phagolysosomes và giọt dầu.

  • Mẫu phân ép tươi:

Cho tôm còn sống vào chậu, đợi tôm đi phân và lấy phân tôm ép và quan sát dưới kính hiển vi. Thể ẩn MBV nhìn thấy được có hình tròn, khúc xạ ánh sáng, đơn độc hoặc xuất hiện thành cụm. Trong phân  rất tươi, thể ẩn MBV trong cụm dính với nhau bởi màng nhân. Thêm malachite green 0,1%, thể ẩn bắt màu xanh đậm hơn các phần khác.

Mô bệnh học:

Phương pháp sinh học phân tử:

MBV lây truyền theo chiều ngang, không gây chết ở tôm trưởng thành nhưng nếu gây nhiễm vào nguồn tôm post sẽ gây thiệt hại kinh tế lớn. Vì vậy đây là yếu tố cần kiểm tra được quan tâm hàng đầu, đặc biệt khi lựa chọn tôm bố mẹ. Kỹ thuật soi tươi khó phát hiện được MBV  khi vị trí lấy mẫu là chân bơi, mẫu phân và khi bệnh vừa chớm.

Xét nghiệm sinh học phân tử bằng phương pháp PCR cho phép phát hiện sớm, chính xác MBV. Ngoài ra, viện Loci vừa nghiên cứu thành công sản phẩm MBV-LOCI LAMP PCR. Phương pháp này không đòi hỏi hệ thống máy móc PCR đắt tiền, cho phép thực hiện xét nghiệm ngay tại ao nuôi do đó có tính ứng dụng rất cao.

Nguồn: http://nghetomtep.com