[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng chế độ ăn được bổ sung chiết xuất bèo tai chuột (EESC), cụ thể là EESC10 (10 g/kg), đã thể hiện năng suất tăng trưởng tốt nhất và cải thiện khả năng miễn dịch không đặc hiệu của tôm thẻ chân trắng bằng cách cải thiện các thông số mức THC, hoạt động PO, quá trình thực bào, quá trình đông máu, thời gian, protein và carbohydrate khi cảm nhiễm với vi khuẩn V. parahaemolyticus.
Sử dụng bèo tai chuột làm chất bổ sung thức ăn có thể là giải pháp thân thiện với môi trường và tiết kiệm chi phí
Phương pháp nghiên cứu
Lá bèo tai chuột được rửa sạch để loại bỏ bụi và sau đó phơi khô, rồi được nghiền thành bột và rây để lấy bột tinh. Sau đó, 10g bột được trộn với 100mL dung môi hữu cơ hexan, etyl axetat và etanol và giữ trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng. Tất cả dịch chiết của bột bèo tai chuột được lọc và sau đó dung môi được làm bay hơi khỏi dịch lọc bằng cách sử dụng thiết bị cô quay chân không và đông khô để lấy dịch chiết khô, bảo quản ở 4°C để sử dụng tiếp.
Các nồng độ khác nhau của khẩu phần ăn kết hợp EESC cho tôm đã được chuẩn bị cùng với nghiệm thức đối chứng. Các nồng độ khác nhau của EESC 5 (EESC), 10 (EESC) và 20 (EESC) g/kg thức ăn và hàm lượng xenlulozơ khác nhau dựa trên nồng độ của EESC được trộn vào thức ăn. Thức ăn được sấy khô trong 10 giờ ở 40°C bằng cách sử dụng máy thổi khí nóng, thu được các viên thức ăn dạng viên có kích thước hạt khoảng 2–5 mm. Thức ăn viên có nồng độ khác nhau được bảo quản trong bốn hộp nhựa kín khí khác nhau ở 4°C cho đến khi thử nghiệm cho ăn.
Tôm được thích nghi với điều kiện phòng thí nghiệm trong bể nhựa 500L. Những cá thể tôm có kích thước bằng nhau, khỏe mạnh và đang trong giai đoạn lột xác đã được sử dụng cho nghiên cứu. Những con tôm được chọn này sau đó được chuyển đến 05 bể kính riêng (100L) cho các thí nghiệm với hệ thống sục khí và dòng nước tuần hoàn. Trong suốt thí nghiệm, các thông số khác nhau như nhiệt độ (27 ± 2 °C), pH (8,4 ± 0,2) và độ mặn (30 ± 1,0‰) của thiết lập thí nghiệm được duy trì ở mức không đổi. Các chỉ tiêu của tôm thẻ chân trắng được đánh giá trong nghiên cứu bao gồm: tăng trưởng, tỷ lệ sống khi cảm nhiễm với vi khuẩn V. parahaemolyticus, chỉ tiêu sinh hóa, chỉ tiêu huyết học và chi tiêu miễn dịch.
Kết quả về tăng trưởng
Sau 56 ngày, các chỉ tiêu WG, SGR và FCR tốt hơn được thể hiện ở tôm thuộc các nhóm được cho ăn bằng nhóm chế độ ăn EESC (P < 0,05). Trong số bốn nhóm, tôm ở EESC 10 có tỷ lệ tăng khối lượng nhiều hơn (243,95 ± 8,72%) và sau đó là EESC 5 (231,87 ± 10,00%), EESC 20 (221,33 ± 10,02%) và đối chứng (202,72 ± 10,31%). Kết quả tương tự được quan sát thấy đối với chỉ tiêu SGR giữa bốn nhóm, mức FCR tốt hơn được quan sát thấy ở EESC 10 (1,54 ± 0,08%), tiếp theo là EESC 5 (1,63 ± 0,02%), EESC 20 (1,65 ± 0,05 %), và đối chứng (1,83 ± 0,05%). Tất cả bốn nhóm đều không có khác biệt về tỷ lệ sống trong quá trình thử nghiệm cho ăn thử nghiệm (P <0,05) (Bảng 1).
Bảng 1. Các thông số tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng sau 56 ngày nuôi
Kết quả về cảm nhiễm với vi khuẩn V. parahaemolyticus
Sau khi kết thúc 56 ngày thử nghiệm cho ăn, bốn nhóm tôm được chọn ngẫu nhiên để cảm nhiễm vi khuẩn với V. parahaemolyticus và tỷ lệ tử chết được ghi nhận trong 120 giờ để tính tỷ lệ sống tích lũy của tất cả các nhóm. Tỷ lệ chết của nhóm đối chứng bị cảm nhiễm đạt 100% sau 120 giờ. Tỷ lệ sống tích lũy ở nhóm ăn theo chế độ ăn kiêng EESC10 cao hơn so với nhóm đối chứng bị cảm nhiễm trong thời gian thử nghiệm 120 giờ, tiếp theo là nhóm EESC20 và EESC5. Tôm được cho ăn EESC và chế độ ăn kiểm soát khác nhau đáng kể (P < 0,05) về tỷ lệ sống tích lũy sau thử thách vi khuẩn V. parahaemolyticus trong 6-120 giờ (Hình 1).
Kết quả về các thông số sinh hóa
Tổng mức carbohydrate và protein trong tan huyết của tôm ở nhóm đối chứng và các nhóm thử nghiệm được thể hiện trong Hình 2. Mức carbohydrate và protein cao nhất được quan sát là 85,8 và 98,66 μg/mL trong chế độ ăn đối chứng cho tôm ăn sau cảm nhiễm vi khuẩn vào ngày thứ 4. Điều này có thể là do tải lượng vi khuẩn cao và cho thấy tình trạng nhiễm khuẩn nặng so với các nhóm điều trị. Tất cả những cá thể tôm trong nhóm đối chứng đều cho thấy mức carbohydrate và protein tối đa vào ngày thứ 6 của thử nghiệm cảm nhiễm vi khuẩn. Đáng ngạc nhiên là mức độ tối đa của cả hai tham số đều giảm vào những ngày tiếp theo và ảnh hưởng của EESC trong chế độ ăn thử nghiệm (P < 0,05) làm giảm đáng kể mức carbohydrate và protein trong tan máu bằng cách kiểm soát bệnh. Trong số tất cả các nghiệm thức, mức carbohydrate và protein tối thiểu đã được quan sát thấy trong các nghiệm thức có bổ sung EESC vào ngày thứ mười (Hình 2a và b).
Kết quả về các chỉ tiêu miễn dịch Tôm ở các nghiệm thức thử nghiệm đã tăng mức SOD đáng kể vào ngày thứ hai của sau cảm nhiễm vi khuẩn và mức SOD của nhóm đối chứng đã giảm xuống 0,62 đơn vị/mL vào ngày thứ tư nhưng các nhóm thử nghiệm đã cho thấy mức SOD tăng lên. Hoạt tính enzyme cao nhất là 1,33, 1,45 và 1,35 đơn vị/mL được quan sát thấy vào ngày thứ 8 ở các nghiệm thức EESC5, EESC10 và EESC20 và tất cả các đều có khác biệt đáng kể so với nhóm đối chứng (P < 0,05). Mức prophenoloxidase của nhóm đối chứng được cảm nhiễm đã giảm hơn so với các nhóm thử nghiệm vào ngày thứ 4 của đợt cảm nhiễm vi khuẩn. Mức PO của tôm ở các nhóm thử nghiệm đã tăng lên mức tối đa vào ngày thứ 8 của nghiên cứu thử thách lần lượt là 0,235, 0,265 và 0,251 OD ở 490 nm trong EESC5, EESC10 và EESC20.
Tất cả bốn nhóm đều khác biệt đáng kể (P <0,05) so với từng nhóm khác vào ngày thứ 8. Tỷ lệ thực bào và chỉ số thực bào được quan sát thấy với sự gia tăng ở nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm vào ngày thứ 2. Mức PO trong nhóm đối chứng được cảm nhiễm giảm mạnh vào ngày thứ 4 so với ngày thứ 2 nhưng mức độ điều trị lại tăng lên. Tốc độ thực bào và chỉ số thực bào đạt mức tối đa và cả bốn nhóm đều khác biệt đáng kể (P <0,05) so với các nhóm khác vào ngày thứ 8 của đợt cảm nhiễm.
Quan điểm
Vì vậy, thay vì các chất kích thích miễn dịch tổng hợp và kháng sinh, việc sử dụng chiết xuất bèo tai chuột EESC bổ sung vào thức ăn ở nồng độ 10 g/kg có thể được sử dụng như một chất phụ gia chức năng thay thế để cải thiện sự tăng trưởng và khả năng miễn dịch chống lại vi khuẩn V. parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng.
ThS. Chinh Lê
Học viện Nông nghiệp Việt
- bèo tai chuột li>
- khả năng miễn dịch trên tôm li> ul>
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt