Chỉ với dịch phụ phẩm thủy sản (cá tra) ban đầu, thông qua xử lý có thể trở thành nguồn nguyên liệu chất lượng mà giá thành rẻ nhằm đáp ứng nhu cầu nuôi cấy thu PHA từ chủng tái tổ hợp.
Nhựa là vật liệu nhân tạo được sử dụng rộng rãi, cần thiết trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống bởi các tính chất đặc trưng như khả năng uốn dẻo, đồ bền, chịu nước… Tuy nhiên, các monome cho phần lớn các chất dẻo như polyester, polyethylen, polypropylen và polystyren có nguồn gốc từ hydrocarbon hóa thạch và không bị phân hủy trong tự nhiên, vì thế gây ô nhiễm và ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên.
Trong khi đó, nhựa sinh học có nhiều ưu điểm do có khả năng phân hủy sinh học, tính bền vững và thân thiện với môi trường, giúp bảo tồn nguồn nhiên liệu hóa thạch. Việc tìm và phát hiện ra các loại nhựa sinh học đã mở ra cánh cửa mới, giúp cải thiện môi trường và cuộc sống con người. Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu đến từ Viện Công nghệ sinh học, chủ nhiệm đề tài là TS. Nguyễn Thị Đà đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tạo chế phẩm sinh học tái tổ hợp sinh tổng hợp Bioplastic từ phụ phẩm chế biến thủy sản”. Đề tài thuộc Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đến năm 2020.
Theo số liệu thống kê, tổng sản lượng thủy sản của Việt Nam đạt khoảng 7 triệu tấn/năm, trong đó phụ phẩm chiếm khoảng 15-20%. Tuy nhiên nguồn phế phẩm này chưa được tái sử dụng nhiều mà một lượng lớn đã thải ra môi trường gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chính vì vậy, đề tài “Nghiên cứu tạo chế phẩm sinh học tái tổ hợp sinh tổng hợp Bioplastic từ phụ phẩm chế biến thủy sản” được thực hiện với mục tiêu nhằm xây dựng được quy trình công nghệ, mô hình thiết bị và sản xuất chế phẩm sinh học có khả năng tổng hợp nhựa sinh học Polyhydroxyalkanoate (PHA) đạt trên 50%.
Cụ thể, tạo được chủng vi sinh vật có khả năng tổng hợp PHA đạt trên 50%; Tạo được chế phẩm sinh học chứa các vi sinh vật có khả năng tổng hợp nhựa sinh học Polyhydroxyalkanoaties (PHA) đạt trên 50%; Xây dựng được quy trình công nghệ, mô hình thiết bị sản xuất chế phẩm sinh học công suất 100 lít/mẻ để tổng hợp bioplastic từ phụ phẩm của ngành chế biến thủy sản.
TS. Nguyễn Thị Đà – chủ nhiệm đề tài cho biết: “Ở Việt Nam hiện nay các nghiên cứu về PHA ở quy mô lớn từ phụ phẩm chế biến thủy sản chưa được ông bố nhiều. Nghiên cứu phát triển công nghệ lên men tạo sinh khối vi khuẩn B. megaterium sử dụng kỹ thuật hiện đại, có điều khiển, sẽ giúp tạo lượng chế phẩm lớn, tạo bước đột phá về công nghệ sản xuất nhựa sinh học bằng phụ phẩm ở trong nước là hết sức cần thiết.”
Qua quá trình triển khai, nhóm nghiên cứu đã quan sát và đánh giá khả năng tổng hợp PHA của 197 với 191 chủng từ bộ sưu tập biển của Viện Hóa sinh biển và 6 chủng thuộc bộ sưu tập chủng của phòng Công nghệ tế bào động vật. Từ đó chọn và phân loại đến loài được 4 chủng có khả năng tích lũy PHA; Đã khảo sát được khả năng sinh tổng hợp PHA của cả 4 chủng trên nguồn dinh dưỡng phụ phẩm cá và 2 chủng cho hàm lượng nhựa sinh học cao nhất là chủng GB515 (7,325%) và chủng DV01 (30,4%). Nhóm cũng đã nghiên cứu được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy, thu bào tử tạo chế phẩm và điều kiện bảo quản chế phẩm từ chủng tái tổ hợp đồng thời xây dựng được quy trình công nghệ và mô hình thiết bị cho tạo chế phẩm vi sinh quy mô pilot 100 lít/mẻ, và xây dựng được quy trình xử lý phế phụ phẩm cá tra làm nguyên liệu lên men.
Đánh giá về hiệu quả kinh tế, kỹ thuật và môi trường, quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm vi sinh được xây dựng và thiết kế nhằm tạo các dạng chế phẩm khác nhau từ hệ thống lên men với mục tiêu đạt hiệu quả thu hồi trên 90% sinh khối sau lên men và hiệu quả sản xuất đạt trên 90%. Quy trình sử dụng hệ thống lên men tự động dung tích khác nhau phù hợp cho từng bước thực hiện theo nhu cầu. Hệ thống thiết bị đi kèm phục vụ tạo chế phẩm cần đầu tư thêm máy sấy phun và máy sấy lạnh… Công nghệ được xây dựng trên mục tiêu dễ thực hiện và không đòi hỏi các quy trình phức tạp. Hiệu quả công nghệ thu được ổn định.
Đối với quy trình công nghệ xử lý dịch phế phụ phẩm tạo nguồn dinh dưỡng nuôi sinh khối vi khuẩn thu PHA, quy trình được xây dựng và thiết kế nhằm tạo các dạng chế phẩm khác nhau từ hệ thống lên men với mục tiêu đạt hiệu quả xử lý phế phụ phẩm thủy sản làm nguồn dinh dưỡng chất lượng cao phục vụ cho quá trình nuôi cấy thu sinh khối vi sinh vật và thu chất béo từ phụ phẩm làm nguồn cung cấp năng lượng cho tế bào tổng hợp PHA cao. Điểm mới công nghệ ở đây là từ nguồn phế phụ phẩm hỗn hợp ban đầu, đề tài đã xây dựng được các bước thực hiện cũng như quy trình xử lý thích hợp thu từng pha sau ủ phục vụ cho mục đích nuôi cấy khác nhau. Dựa vào hỗn hợp phụ phẩm sau chế biến cá tra, đề tài đã xác định được cách xử lý hiệu quả nhằm thu được nguồn dinh dưỡng cao nhất giúp vi sinh vật có khả năng dễ sử dụng bằng kết hợp ủ với các enzyme thích hợp. Chỉ với dịch phụ phẩm thủy sản (cá tra) ban đầu, thông qua xử lý có thể trở thành nguồn nguyên liệu chất lượng mà giá thành rẻ nhằm đáp ứng nhu cầu nuôi cấy thu PHA từ chủng tái tổ hợp.
Tác giả: Đặng Huy
Nguồn tin: Tapchicongthuong.vn
- Bioplastic li>
- chế phẩm sinh học li> ul>
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt