Ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển sản phẩm tôm hùm

Phú Yên là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ, có bờ biển dài 189km. Nhờ điều kiện tự nhiên thích hợp mà diện tích nuôi tôm hùm của tỉnh đứng đầu trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng và các yếu tố thuận lợi, việc phát triển sản phẩm tôm hùm còn rất nhiều vấn đề đặt ra…

Còn nhiều bất cập

Theo đề án Phát triển nuôi và xuất khẩu tôm hùm đến năm 2025 đã được Bộ NN-PTNT phê duyệt thì việc phát triển nuôi tôm hùm tại Phú Yên với hai hình thức là nuôi tôm hùm bằng lồng trên biển và nuôi trong hệ thống tuần hoàn trên bờ, với tổng diện tích nuôi 1.000ha, tập trung tại đầm Cù Mông (253ha), vịnh Xuân Đài (747ha) với tổng số 45.000 lồng. Bên cạnh đó, Phú Yên cũng đã có quy hoạch nuôi tôm hùm lồng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017 thì các quy hoạch của tỉnh không còn hiệu lực. Mặc dù vậy, do lợi nhuận cao, người nuôi bất chấp mọi khuyến cáo, không theo quy hoạch, phát triển số lượng lồng nuôi ồ ạt… Điều đó gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý và sản xuất bền vững.

Theo ông Lâm Duy Dũng, Phó Chủ tịch UBND TX Sông Cầu, hơn 80% lượng giống tôm hùm đưa vào nuôi trên địa bàn thị xã có nguồn gốc nhập từ nước ngoài. Việc kiểm soát nguồn giống tôm hùm nhập về vượt khả năng của địa phương, do đó công tác sắp xếp, giao mặt nước để nuôi trồng thủy sản lồng bè, bảo đảm nuôi đúng trong vùng quy hoạch, nuôi đúng mật độ, số lượng lồng nuôi theo quy định gặp rất nhiều khó khăn.

Người dân TX Sông Cầu thu hoạch tôm hùm thương phẩm. Ảnh: LỆ VĂN

Cũng theo ông Dương Bình Phú, thực tiễn cho thấy, giá trị gia tăng của sản phẩm tôm hùm không chỉ dựa vào diện tích nuôi, năng suất và sản lượng mà còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng nuôi và chế biến có đạt được các tiêu chuẩn nhất định để tham gia chuỗi cung ứng cũng như giá trị toàn cầu. Bởi sản phẩm tôm hùm có dư địa lớn trong xuất khẩu và tiêu dùng nội địa nhưng giá trị gia tăng và đặc biệt là giá trị thương hiệu nhận được từ việc cấp văn bằng chỉ dẫn địa lý vẫn chưa định hình ngay thị trường trong nước và thế giới. Nguyên nhân chính là do chưa chủ động được nguồn giống có chất lượng, chưa có loại thức ăn đủ tiêu chuẩn được sản xuất trong nước… nên hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu. Do vậy, trong bối cảnh hội nhập, để giá trị sản phẩm được gia tăng thì một trong những yêu cầu cần đặt ra là sản phẩm đó phải tham gia được trong chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu cũng như nội địa. Để đạt được điều đó thì yêu cầu trong sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến cần phải ứng dụng các công nghệ hợp lý để sản phẩm đạt được những tiêu chuẩn theo quy định trong tiêu dùng. Vì vậy, việc lựa chọn công nghệ hợp lý cho từng công đoạn hoặc cả chuỗi sản xuất đối với một số sản phẩm chủ lực không thể khả thi nếu không có được sự phát triển bền vững.

“Nói cách khác, KH-CN phải được xem xét là nội dung nằm trong chuỗi sản xuất, được nghiên cứu đi trước để dẫn dắt tạo ra chuỗi sản xuất đồng bộ theo tiêu chuẩn và có giá trị cao. Việc nghiên cứu, đưa nội hàm KH-CN trong phát triển sản phẩm tôm hùm đóng vai trò động lực trực tiếp cho sản xuất, làm thay đổi cơ cấu và nâng cao được giá trị sản phẩm đóng góp cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Nhất là việc xây dựng và cấp văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm tôm hùm Phú Yên không chỉ khẳng định thương hiệu mà còn là cơ sở khoa học để Phú Yên có những bước đi mới trong chiến lược phát triển kinh tế nhằm sớm triển khai đề án “Phát triển sản xuất tôm hùm tỉnh Phú Yên đến năm 2030”, Giám đốc Sở KH-CN Dương Bình Phú nhấn mạnh.

Theo Sở NN-PTNT, tính đến tháng 12/2021, toàn tỉnh có 2.100 hộ nuôi tôm hùm thương phẩm, với khoảng 33.000 lồng; sản phẩm mỗi năm đạt 20 tấn, doanh thu 1.000 tỉ đồng.

VĂN TÀI

Nguồn tin: Báo Phú Yên