Khả năng tiêu thụ biofloc của hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng

[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Trong giai đoạn đầu của quá trình nuôi tôm (hậu ấu trùng), thức ăn tươi sống là nguồn thức ăn hiệu quả vì những loại thức ăn này tồn tại lâu hơn trong nước và có khả năng tiêu hóa cao.

Các hệ thống nuôi biofloc – BFT là nguồn thức ăn tươi sống trong giai đoạn nuôi tôm thương phẩm. Công nghệ này dựa trên việc bổ sung nguồn carbon hữu cơ được các vi khuẩn sử dụng để chuyển đổi nitơ dư thừa ở sinh khối vi khuẩn trong bể sản xuất, hạn chế thay nước.

Trong giai đoạn đầu nuôi tôm ấu trùng (từ giai đoạn PL-1 cho đến PL-30), tôm thường được nuôi trong hệ thống nước sạch với việc bổ sung các loại thực phẩm như thực vật phù du, động vật phù du (Artemia sp.), thức ăn công nghiệp, và tần suất thay nước cao. Vì vậy, hệ thống BFT có thể là nguồn thức ăn thay thế cho giai đoạn này.

Các nguồn thức ăn khác nhau (A: Artemia; B: biofloc; C: thức ăn công nghiệp; D: trùng lông; E, F: vi tảo) và hậu ấu trùng tôm (G, H) được sử dụng trong thử nghiệm.

Thiết lập thí nghiệm

Thí nghiệm kéo dài trong 30 ngày, bắt đầu với hậu ấu trùng tôm một ngày tuổi (PL1) và tiến hành hai thử nghiệm khác nhau để kiểm soát amoniac khi nồng độ đạt 0,5 mg/L. Thử nghiệm đầu thay nước khoảng 70% tổng khối lượng và thử nghiệm 2 bao gồm bón phân hữu cơ với dextrose (xử lý BFT) không thay nước.

Trong cả hai phương pháp trên, tôm được cho ăn ba loại thức ăn công nghiệp (CF) khác nhau, theo giai đoạn phát triển; tôm được cho ăn ba lần mỗi ngày bằng thức ăn công nghiệp và một lần bằng Artemia sp. Nauplii đông lạnh. Vi tảo Chaetoceros muelleri được cấy vào bể thí nghiệm trong ngày thí nghiệm đầu tiên với nồng độ 5×104 TB/mL.

Để theo dõi chất lượng nước, oxy hòa tan, nhiệt độ và pH được đo hàng ngày. Amoniac (N-(NH3+ NH4+)) được kiểm tra 2 ngày/lần. Nitrit (N-NO2) và phosphat (P-PO3-) được đo hàng tuần. Độ kiềm (mg/L CaCO3) và nitrat (N-NO3) được xác định trong mẫu ban đầu và mẫu cuối cùng. Hiệu suất tăng trưởng của tôm thử nghiệm được đánh giá theo kích thước, trọng lượng và tỷ lệ sống. Các mẫu của các nguồn thức ăn khác nhau, biofloc và tôm postlarvae được thu thập vào ngày thứ 10, 20 và 30 của thí nghiệm để xác định giá trị carbon và nitơ.

Kết quả và thảo luận

Trong quá trình thử nghiệm, tỷ lệ đóng góp của biofloc là khoảng 50%. Trong phương pháp xử lý BFT, biofloc có vai trò quan trọng đối với năng suất của hậu ấu trùng L. vannamei. Vi tảo cũng có đóng góp tương tự khi so sánh với biofloc trong phương pháp điều trị BFT. Và trong cả hai phương pháp điều trị, vi tảo được đồng hóa nhiều hơn so với Artemia sp. nauplii.

Kết quả cho thấy rằng Artemia sp. có đóng góp nhỏ hơn so với các nguồn thức ăn khác trong sự phát triển của hậu ấu trùng. Mặc dù có lợi về mặt kinh tế, nhưng vẫn chưa biết tỷ lệ hoặc tác động trực tiếp của việc giảm sử dụng Artemia sp. có thể gây ra ở hậu ấu trùng tôm, vì nguồn thức ăn này cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển trong giai đoạn đầu đời của tôm he.

Thu Hiền (Lược dịch)