Bột Bông Thay Thế Bột Đậu Nành Trong Thức Ăn Tôm

Tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei là loài được nuôi phổ biến nhất ở các nước châu Á kể từ năm 2004 (Liao et al., 2011), và rất phù hợp để nuôi thâm canh vì tốc độ tăng trưởng cao và khả năng chống lại bệnh tật (Williams et al., 1996). Quy mô canh tác của tôm thẻ chân trắng đã nhanh chóng mở rộng. Nhu cầu thức ăn tăng khi sản lượng tôm tăng. Do đó, sử dụng các thành phần rẻ tiền trong chế độ ăn kiêng có thể là một cách hiệu quả để giảm chi phí.

Protein là chất dinh dưỡng đắt nhất trong thức ăn nuôi trồng thủy sản. Bột đậu nành (SBM) là một trong những thay thế phù hợp và ổn định nhất cho quá trình sản xuất bột cá thương mại vì hàm lượng protein cao, khả năng tiêu hóa cao, hàm lượng axit amin cao, giá cả hợp lý và cung cấp ổn định (Hecht, 2000). Tuy nhiên, một số yếu tố chống dinh dưỡng (ANFs), chẳng hạn như  chất xúc tác, axit phytic, saponin, phytoestrogen có thể kìm hãm sự phát triển của động vật thủy sản. Sự hiện diện của ANF thường được công nhận là một trong những nhược điểm chính của SBM. Do đó, việc sử dụng các nguồn protein ít tốn kém hơn với giá trị dinh dưỡng tương đương với SBM sẽ có lợi trong việc giảm chi phí thức ăn và tăng lợi nhuận của nhà sản xuất.

Bột hạt bông (CSM) là một nguồn protein thực vật có nhiều ở hầu hết các nơi trên thế giới, có hàm lượng protein tương đối cao và thường rẻ hơn so với bột đậu nành SBM. Một số nghiên cứu đã cho thấy CSM có thể thay thế SBM trong chế độ ăn của cá, như cá trê, cá rô phi (Yue và Zhou, 2008), cá trắm cỏ (Zheng et al., 2012), cá chép (Hu et al., 2015) và tôm càng xanh (Huang et al., 2018). Kết quả cho thấy SBM và CSM có thể được thay thế ở cùng cấp độ và không khác biệt về tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và tỷ lệ sống; tuy nhiên, các hệ số tiêu hóa rõ ràng đối với chất khô, protein thô và năng lượng của CSM thấp hơn SBM, đây là yếu tố chính của việc hạn chế sử dụng CSM.

Trong nghiên cứu này, mức độ bổ sung sắt tăng lên khi tăng CSM trong chế độ ăn uống của L. vannamei để đánh giá sự tăng trưởng, sử dụng thức ăn và hoạt động của enzyme miễn dịch không đặc hiệu trong huyết thanh. Những phát hiện của chúng tôi đã cung cấp một cơ sở lý thuyết cho việc sử dụng CSM một cách hợp lý trong quá trình nuôi tom thẻ chân trắng.

Nghiên cứu ứng dụng bột bông vào thức ăn tôm thẻ chân trắng

Nghiên cứu bao gồm 6 nghiệm thức được bổ sung bộ bông CSM với nồng độ 0%, 9,2%, 15,2%, 21,3%, 27,4% và 30,4% tương ứng được dùng thay thế 0%, 30%, 50%, 70%, 90% và 100% SBM (được đánh số lần lượt là D0, D30, D50, D70, D90 và D100) cho ăn trong vòng tám tuần.

Kết quả

Dựa trên những phát hiện về sự thay đổi trong tăng trưởng và sử dụng thức ăn, nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ tối ưu là thay thế 87,44% SBM bằng 26,82% CSM trong thức ăn của L. vannamei.

Tác động của việc thay thế SBM bằng CSM đối với tăng trưởng và sử dụng thức ăn. Kết quả chỉ ra rằng lượng thức ăn khác nhau của tôm ảnh hưởng đáng kể đến WG, SGR, SR, FCR và PER. Tôm nuôi bằng chế độ ăn D30, D50 và D70 sẻ không ảnh hưởng đến tăng cân, tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ FCR. Tuy nhiên, khi tôm ăn chế độ D100 sẻ giảm WGR và SGR và tăng FCR.

Tương tự, hàm lượng protein thô, hàm lượng lipid và độ ẩm ở các nghiệm thức D0, D30, D50 không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, ở nghiệm thức D100, giá trị protein thô của tôm giảm, trong khi giá trị lipid thô và độ ẩm trong cơ thể tôm tăng.

Hoạt tính PO trong huyết thanh của tôm được nuôi bằng chế độ ăn D0 và D30 được chứng minh là không khác biệt đáng kể ( P > 0,05) nhưng cao hơn đáng kể ( P <0,05) so với tôm được nuôi bằng chế độ ăn D50, D70, D90 và D100. Hoạt động T-SOD của tôm cho thấy không có sự khác biệt đáng kể cho đến khi mức thay thế lên tới 70% ( P > 0,05) và chúng cao hơn đáng kể so với tôm được cho ăn chế độ ăn D90 và D100 ( P <0,05).

Tóm lại, kết quả của nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng CSM có thể được kết hợp trong chế độ ăn cho L. vannamei lên tới mức 27,4%, sẽ thay thế 90% SBM mà không có tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng và chất lượng thịt trong cơ thể. Do đó, có thể sử dụng bột bông thay thế bột đậu nành để giảm thiểu chi phí trong quá trình nuôi.

Như Huỳnh lược dịch

Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2352513419302510