[Người Nuôi Tôm] – Hội chứng bolitas (LBS) có tác động nghiêm trọng đến hệ tiêu hóa của ấu trùng tôm thẻ chân trắng P. vannamei, tỷ lệ tử vong lên tới 90%.
Bolitas thường xuất hiện ở các trại tôm giống
Thiết lập nghiên cứu
Các mẫu ấu trùng tôm thẻ chân trắng (P. vannamei) từ hai trại giống ở Mỹ Latinh đã được lấy mẫu. Một trong các trại giống đã báo cáo tỷ lệ tử vong cao ở giai đoạn zoea 2–3, trại giống còn lại có zoea 2–3 khỏe mạnh được chọn làm đối chứng. Các mẫu để xét nghiệm vi sinh, PCR và mô bệnh học đã được lấy từ hai bể chứa của mỗi trại giống. Tôm được lấy mẫu để xét nghiệm PCR và mô học là những cá thể khác nhau từ cùng một quần thể.
Kết quả nghiên cứu
Trong số tất cả các tác nhân gây bệnh được phân tích bằng PCR, điểm khác biệt chính duy nhất giữa zoea bị bệnh và zoea khỏe mạnh là sự xuất hiện của Vibrio và vi khuẩn giống Rickettsia, RLB, nhiều hơn ở zoea bị bệnh.
Hình 1: Khối u mới của ấu trùng zoea 2
(a) Một ấu trùng khỏe mạnh với đường tiêu hóa bình thường; (b–d) Ấu trùng bị ảnh hưởng, lưu ý việc thiếu thức ăn và sự xuất hiện của bolitas (mũi tên) trong gan tụy, cũng như ruột trên (đầu mũi tên).
Xét nghiệm vi sinh vật học cho thấy, ở zoea bị nhiễm bệnh, tổng số vi khuẩn có thể nuôi cấy (TSA) cao hơn một bậc độ lớn và số lượng Vibrio cao hơn gần hai bậc độ lớn khi so sánh với zoea khỏe mạnh. Vibrio chiếm 17% ở zoea nhiễm bệnh và 6% tổng số vi khuẩn ở zoea khỏe mạnh. Các khuẩn lạc màu xanh lá cây và các khuẩn lạc màu hoa cà là V. parahaemolyticus được cho là chiếm lần lượt 0,2% và 82% tổng số lượng Vibrio ở zoea bị nhiễm bệnh, trong khi ở zoea khỏe mạnh với lần lượt là 56% và 2%.
Hình 2: Các lát cắt nhuộm hematoxylin và eosin qua ấu trùng zoea 2 bình thường và bị nhiễm bệnh
(a) Ấu trùng zoea 2 bình thường; (b) Nhìn kỹ hơn vào hình ảnh a, cho thấy sự hình thành sớm của gan tụy (mũi tên dày). Lưu ý hàm lượng thức ăn của hệ tiêu hóa và không có mảnh vụn mô; (c) Các thùy sẽ hình thành gan tụy (mũi tên mỏng). Lưu ý màng quanh ruột còn nguyên vẹn và hàm lượng thức ăn (đầu mũi tên); (d) Nhìn kỹ hơn đường tiêu hóa với các hạt màu nâu có thể là tảo siêu nhỏ (mũi tên dày).
Một sự khác biệt quan trọng giữa bệnh lý đối với LBS và PL-AHPND là không có sự bong tróc hàng loạt các tế bào trong gan tụy, như đã được mô tả đối với PL-AHPND. Ngoài ra, PL-AHPND chưa bao giờ được tìm thấy hoặc mô tả trong zoea. Không có gen PirAB của AHPND cũng như các gen gây bệnh khác được phát hiện.
Từ khi nở cho đến khi thu hoạch, môi trường vi sinh là một hỗn hợp gồm vi khuẩn và các hạt giống virus (VLP). Khi ấu trùng chuyển từ chế độ ăn dựa trên tảo như zoea sang động vật có nguồn protein như mysis, ấu trùng sau đó trải qua một sự thay đổi đáng kể về thể tích gan tụy và sinh hóa của các enzyme tiêu hóa. Ở zoea, quá trình lọc các hạt gần như không phân biệt. Khi các giai đoạn zoea tiếp xúc với nồng độ vi khuẩn rất cao, sống tự do và bám dính – bao gồm cả Vibrio dễ bị tiêu hóa và có thể đi vào đường tiêu hóa – những tác động có hại do đó có thể được quan sát thấy tùy thuộc vào một số yếu tố như giai đoạn phụ của ấu trùng liên quan, các loài Vibrio hiện diện và nồng độ của chúng.
Biểu hiện chính trong sự xuất hiện của bệnh có thể là sự hiện diện của căng thẳng (do nhiệt độ, độ mặn, mật độ, độc tố và các yếu tố khác) do sự biến động của môi trường và điều này gây ra sự thay đổi trong tương tác vật chủ-bệnh nguyên và sự lây truyền vi khuẩn giữa các loài. Những thay đổi như vậy tác động lên các tác nhân gây bệnh để tạo điều kiện cho sự lây truyền tăng lên giữa các vật chủ riêng lẻ và tăng tiếp xúc với các quần thể hoặc loài vật chủ mới và trên sự lựa chọn, áp lực dẫn đến sự thống trị của các chủng tác nhân gây bệnh thích nghi với các điều kiện môi trường mới này.
Quan điểm
Kiểm tra bệnh học mô học của ấu trùng zoea giai đoạn 2–3 bị ảnh hưởng bởi LBS cho thấy những thay đổi bệnh lý đáng kể, bao gồm bong tế bào biểu mô, hoại tử gan tụy, màng quanh ruột bị phá vỡ và sự hiện diện của vi khuẩn gram âm. Những phát hiện này làm nổi bật tác động nghiêm trọng của LBS lên hệ tiêu hóa của ấu trùng tôm thẻ chân trắng, trái ngược hoàn toàn với cấu trúc nguyên vẹn và không có các đặc điểm gây bệnh ở ấu trùng khỏe mạnh. Cần nghiên cứu thêm để hiểu đầy đủ về nguyên nhân gây bệnh LBS và phát triển các biện pháp can thiệp hiệu quả để giảm thiểu tác động của nó trong trại giống tôm.
Hiểu Lam (Lược dịch)
Theo Globalseafood
Hội chứng ấu trùng bolitas (LBS) có bệnh lý đặc trưng của gan tụy, trong đó có sự bong tróc tế bào của biểu mô gan tụy, tạo thành các quả cầu, cuối cùng di chuyển vào ruột trên. Bệnh lý đại thể của LBS thường phát triển trong vài giờ, từ zoea khỏe mạnh được ăn uống đầy đủ đến những con vật hấp hối rỗng ruột. Đồng thời, ấu trùng phát quang sinh học, kèm theo những thay đổi về hành vi và chán ăn. Tỷ lệ tử vong hàng loạt, lên tới 90% đã được quan sát thấy chủ yếu ở giai đoạn zoea và mysis. Một đặc điểm đặc trưng của LBS là sự hiện diện của bolitas (hình cầu) trong gan tụy sau đó di chuyển đến ruột.
- Tinh dầu oregano và chiết xuất saponin quillaja: Giải pháp tự nhiên nâng cao sức khỏe đường ruột tôm cá
- Mô hình nuôi TLSS: Giải pháp giảm chi phí sản xuất nuôi tôm trên ao bạt
- Mô hình RAS-IMTA: Nuôi đa loài tuần hoàn mang lại giá trị cao
- Các Hội, Hiệp hội thủy sản đồng lòng kêu gọi hỗ trợ khắc phục thiệt hại sau bão Yagi
- Các loại năng lượng tái tạo ứng dụng trong nuôi tôm
- Ngành thủy sản Việt Nam sẵn sàng đón đoàn kiểm tra của EU
- Hạt giá thể vi sinh: Giải pháp mới trong quản lý chất lượng nước nuôi thủy sản
- Bệnh vi bào tử trùng EHP trên tôm và giải pháp phòng ngừa của Sando
- Quảng Ninh: Bán hàng chục tấn tôm thẻ giá rẻ sau bão Yagi, dân bấm bụng vớt vát
- Hà Tĩnh: Phát hiện EHP trên tôm nuôi
Tin mới nhất
T4,18/09/2024
- Tinh dầu oregano và chiết xuất saponin quillaja: Giải pháp tự nhiên nâng cao sức khỏe đường ruột tôm cá
- Mô hình nuôi TLSS: Giải pháp giảm chi phí sản xuất nuôi tôm trên ao bạt
- Mô hình RAS-IMTA: Nuôi đa loài tuần hoàn mang lại giá trị cao
- Các Hội, Hiệp hội thủy sản đồng lòng kêu gọi hỗ trợ khắc phục thiệt hại sau bão Yagi
- Các loại năng lượng tái tạo ứng dụng trong nuôi tôm
- Ngành thủy sản Việt Nam sẵn sàng đón đoàn kiểm tra của EU
- Hạt giá thể vi sinh: Giải pháp mới trong quản lý chất lượng nước nuôi thủy sản
- Bệnh vi bào tử trùng EHP trên tôm và giải pháp phòng ngừa của Sando
- Quảng Ninh: Bán hàng chục tấn tôm thẻ giá rẻ sau bão Yagi, dân bấm bụng vớt vát
- Hà Tĩnh: Phát hiện EHP trên tôm nuôi
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Long Thăng: Triển khai chương trình “Tôm to xế xịn 2023”
- Hiệu quả vượt trội với mô hình nuôi cá điêu hồng Thăng Long
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt