Tôm sú được coi là một trong những đối tượng nuôi quan trọng của ngành thủy sản Việt Nam. Trong nhiều năm qua, loài này được xem là giống chính giúp đưa Việt Nam vào danh sách những nước cung cấp tôm quan trọng của thế giới. Với tầm quan trọng như vậy thì nhu cầu đáp ứng con giống là rất lớn. Trong sản xuẩt tôm sú, để tạo ra con giống tốt cần rất nhiều yếu tố như nguồn giống, dinh dưỡng, môi trường…trong đó thức ăn tự nhiên là yêu cầu không thể thiếu. Do đó, vấn đề chọn sinh vật làm thức ăn cho ấu trùng thủy sản đóng vai trò rất quan trọng.
Ở nước ta hiện nay, tỷ lệ tôm giống bố mẹ vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tự nhiên dẫn đến chất lượng phôi giống không đảm bảo. Chính vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu tập trung vào cải thiện ấu trùng tôm. Trong đó, phương pháp nghiên cứu sử dụng trùn quế trong ương ấu trùng tôm sú đã và đang mang lại những kết quả tích cực.
Thời kỳ ấu trùng của tôm sú gồm các giai đoạn phụ.
+) Nauplius gồm 6 giai đoạn, các nauplius mới nở kéo dài khoảng 36 – 51 giờ, sống trôi nổi trên tầng trên, dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Cuối giai đoạn này hệ tiêu hóa bắt đầu hình thành và hoạt động.
+) Zoae gồm 3 giai đoạn, giai đoạn này kéo dài khoảng 105 – 120 giờ, cơ thể gồm 3 phầm đầu – ngực – bụng. Ấu trùng trôi nổi gần mặt nước và bắt đầu ăn lọc thực vật phiêu sinh. Thức ăn chủ yếu của chúng lúc này là tảo khuê như Chaetoceros sp hay Skeletonema sp. Nếu trong quá trình sản xuất giống nhân tạo thiếu tảo thì có thể bổ sung bằng các loại thức ăn công nghiệp như tảo khô Spirulina sp hay Lansy, AP0, AP1…
+) Mysis gồm 3 giai đoạn, ở giai đoạn này đã bắt đầu hình thành các cặp chân, đuôi bụng và có hình dạng giống tôm trưởng thành. Thức ăn của chúng lúc này là động vật phiêu sinh, ấu trùng Artemia, trong sản xuất giống thức ăn bổ sung được sử dụng là Lansy, Frippack 2, AP0, AP1.
Thành phần dinh dưỡng của trùn quế:
Trùn quế và phân trùn tươi hiện đang được sử dụng phổ biến làm thức ăn, xử lý ao nuôi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản và cũng bắt đầu được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu nhằm ứng dụng rộng rãi hơn, đặc biệt từ nguồn đạm giàu acid amin sẽ mở ra hướng phát triển mới trong ương tôm giống.
Trùn tươi phơi khô có 93,62% vật chất khô; protein thô 59,90%; năng lượng thô 402,09 Kcalo/100g; béo thô 7,43%; xơ thô 1,73%; Ca 0,11%, P 0,118%.
Trùn tươi có: nước 80,18%; protein thô 11,76%; béo thô 1,32%; xơ thô 0,11%; Ca 0,09%; P 0,14%; tro thô 0,32%. Trùn quế perionyx excavantus có chứa 17 amino acid trong đó có 9 amino acid không thể thay thế rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát dục của gia súc gia cầm: Methionine, Arginine, Threonine, Phenylalanin, Histidine, Isoleucine, Leicine, Lysine, Valine. Dịch trùn quế Promin là một trong số dạng lưu trữ khác của trùn quế ở dạng nước, đây là một sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao bổ sung vitamin và amin cho vật nuôi, đặc biệt là trong thủy sản.
Bố trí thí nghiệm
Đề tài được thực hiện gồm 6 nghiệm thức với nhân tố liều lượng và cách thức sử dụng promin khác nhau ( Không sử dụng promin , promin được trộn vào thức ăn và promin giàu hóa vào Artemia). Các thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong bể nhựa 60 lít với 50 lít nước. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần với mật độ 150 ấu trùng/ lít có độ mặn 30‰. Có hệ thống sục khí hoàn chỉnh. Ấu trùng Nauplius được định lượng và xử lý bằng formol ở nồng độ 25ppm trong thời gian 5-7 phút.
Kết Quả:
So sánh giữa các thí nghiệm cho thấy việc bổ sung trùn quế vào thức ăn với liều lượng khác nhau có tác dụng làm giảm hàm lượng TAN (tổng lượng nitơ ở dạng NH3 và NH4+ trong nước) vào cuối chu kỳ ương, riêng ở các nghiệm bổ sung dịch trùn quế bằng cách giàu hóa Artemia không làm giảm hàm lượng TAN.
Thí nghiệm cũng chỉ ra rằng, việc bổ sung dịch trùn quế theo phương pháp trộn vào thức ăn làm cho hàm lượng nitrite tăng cao. Riêng phương pháp giàu hóa Artemia làm hàm lượng nitrite ổn định va tăng chậm đến cuối chu kỳ.
Hàm lượng dinh dưỡng và yếu tố môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ấu trùng. Kết thúc thí nghiệm có sự khác biệt về chiều dài, riêng ở giai đoạn Z2, M2 có sự sai khác không quá lớn, Z2 (1,28±0,01 mm) và M2 (3,81±0,12 mm). Nguyên nhân là do ở 2 giai đoạn này lượng promin chưa được bổ sung nhiều, chất lượng nước, môi trường còn nằm trong khoảng thích hợp.
Đồng thời thí nghiệm cũng chỉ ra tỷ lệ sống ở giai đoạn Z2 là cao nhất sau đó giảm dần về sau của chu kỳ ương. Trong quá trình ương tỷ lệ sống giảm do chọn lọc tự nhiên qua các giai đoạn ấu trùng, ấu trùng ăn lẫn nhau, chất lượng nước và môi trường xấu.
Ảnh: Tỷ lệ sống qua các giai đoạn của 6 thí nghiệm
Thí nghiệm đã cho thấy ở các nghiệm thức bổ sung promin bằng phương pháp giàu hóa Artemia với liều lượng khác nhau có tác dụng làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng tôm sú, riêng việc bổ sung promin vào thức ăn chế biến làm tỷ lệ sống của ấu trùng thấp. Do hàm lượng dinh dưỡng trong promin hòa tan trong nước làm cho hàm lượng NO2– tăng cao dẫn đến tỷ lệ sống của phương pháp trộn promin vào thức ăn chế biến thấp hơn phương pháp giàu hóa Artemia bổ sung promin. Việc sử dụng promin theo phương pháp giàu hóa Artemia với liều lượng 5ppm có ảnh hưởng rất tích cực đến sự phát triển của ấu trùng tôm sú.
Tổng hợp từ đề tài nghiên cứu của tác giả Châu Văn Triều
- ấu trùng tôm li>
- tôm sú li>
- trùn quế li>
- ương ấu trùng tôm li> ul>
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
Tin mới nhất
T2,25/11/2024
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt