[Tạp chí người Nuôi Tôm] – Bổ sung selenoprotein vào thức ăn với liều 7,5 g/kg cho hiệu quả tăng năng suất và ngăn chặn sự tấn công của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong nuôi tôm thâm canh.
Người nuôi áp dụng hệ thống nuôi tôm thâm canh nhằm tối ưu hóa sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu ngày càng tăng. Việc áp dụng hệ thống nuôi trồng thủy sản thâm canh này có thể gây bất lợi cho môi trường nuôi trồng do sự tích tụ chất thải hữu cơ và quá trình trao đổi chất của tôm thẻ chân trắng. Sự kết hợp giữa các hệ thống nuôi tôm thâm canh (mật độ cao), chất lượng môi trường nuôi kém và nhiễm mầm bệnh sẽ dẫn đến bùng phát các bệnh do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).
Người nuôi có thể bổ sung phụ gia vào thức ăn để giải quyết stress oxy hóa trong hệ thống nuôi tôm thâm canh. Một loại phụ gia thức ăn có thể được sử dụng là selenoprotein. Selenoprotein là một trong những dạng selen mạnh nhất có thể được sử dụng làm chất bổ sung selen cho tôm. Hơn nữa, có thông tin cho rằng tính chất vật lý và hóa học của peptide tốt hơn so với các axit amin đơn lẻ. Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá việc bổ sung selenoprotein với liều lượng khác nhau lên khả năng tiêu hóa, tăng trưởng và hiệu quả sức khỏe của tôm thẻ chân trắng.
Phương pháp nghiên cứu
Selenoprotein là sản phẩm được phát triển bởi PT. Aquacell Indo Pasifik được bán trên thị trường dưới tên thương hiệu AQUACELL GF Shrimp®. Selenoprotein được cân và pha loãng với nước tới 160 mL/kg thức ăn. Sau đó, dung dịch selenoprotein được thêm vào thức ăn và khuấy cho đến khi hỗn hợp thức ăn được phân bố đều. Để đảm bảo selenoprotein được phân bố đều trong thức ăn, hỗn hợp thức ăn sau đó được bảo quản ở điều kiện kín khí trong 24h theo quy trình của nhà sản xuất.
Việc phân tích khả năng tiêu hóa và hiệu suất tăng trưởng được thực hiện với 4 nghiệm thức và 4 lần lặp lại, bao gồm nghiệm thức đối chứng (không bổ sung selenoprotein) và bổ sung selenoprotein ở liều 2,5; 5 và 7,5 g/kg thức ăn.
Tôm thẻ chân trắng sạch mầm bệnh lấy từ PT. Suri Tani Pemuka Anyer, tỉnh Banten, Indonesia được sử dụng để phân tích hiệu suất tiêu hóa có trọng lượng cơ thể là 6,1g và mật độ 15 con/bể. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày (7h và 15h) khi đã no. Để phân tích khả năng tiêu hóa, phân được thu thập bằng cách hút bằng một ống nhỏ và sau đó lọc qua bộ lọc vải cho đến khi thu
được đủ số lượng để phân tích. Phân được đặt trong hộp đậy kín và đông lạnh ở nhiệt độ -20°C. Phân được sấy khô trong lò từ 4 đến 6 giờ ở nhiệt độ 50°C.
Thử nghiệm cảm nhiễm bao gồm 5 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. 4 nghiệm thức điều trị được liệt kê ở trên được thử nghiệm cảm nhiễm V. parahaemolyticus và đối chứng âm trên tôm (không cảm nhiễm).
Tôm thẻ chân trắng dùng để phân tích hiệu suất tăng trưởng có trọng lượng cơ thể trung bình là 1,5 g/con và mật độ 15 con/bể. Tôm thẻ chân trắng được cho ăn thử nghiệm 5 lần mỗi ngày (6h, 10h, 14h, 18h và 22h) trong 70 ngày nuôi, với tỷ lệ cho ăn ban đầu là 8% sinh khối tôm. Sau khi nuôi bằng thức ăn đã qua xử lý, 10 con tôm trong mỗi bể được cảm nhiễm Vibrio parahaemolyticus với mật độ 107 CFU/ mL, thể tích 100 µL/tôm. Tôm đối chứng âm (NC) được tiêm dung dịch PBS. Sau đó, tôm được nuôi bằng thức ăn xử lý trong 14 ngày và số lượng tôm chết được xác định dựa trên tỷ lệ sống của tôm khi kết thúc thử nghiệm thử thách.
Kết quả nghiên cứu
Khả năng tiêu hóa rõ ràng
Hiệu suất tiêu hóa của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein có sự khác biệt đáng kể (P<0,05) so với nhóm đối chứng. ADC chất khô của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein ở nồng độ 5 và 7,5 g/kg, cao hơn so với đối chứng (P<0,05), trong khi nghiệm thức ở liều 2,5 g/kg không khác biệt (P>0,05). ADC protein tôm thẻ chân trắng bổ sung selenoprotein ở liều 7,5 g/kg, cao hơn so với đối chứng, trong khi các liều khác không khác biệt đáng kể.
Hiệu suất tăng trưởng
Hiệu suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein có sự khác biệt đáng kể (P<0,05). Sinh khối cuối cùng, trọng lượng cơ thể cuối cùng, SGR và ADG của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein với liều 7,5 g/kg cao hơn đáng kể so với đối chứng, trong khi các liều khác không khác biệt đáng kể. Lượng ăn vào, PER và PR của tôm thẻ chân trắng được nuôi bổ sung selenoprotein cao hơn hơn đối chứng khi liều selenoprotein trong thức ăn tăng lên. FCR và FCR khô của tôm thẻ chân trắng được nuôi bổ sung selenoprotein với liều 7,5 g/kg, tốt hơn rõ rệt khi so sánh với các phương pháp thử nghiệm khác. Lượng thức ăn khô ăn vào ở tất cả các nghiệm thức không khác biệt đáng kể. SR của tôm thẻ chân trắng được nuôi bổ sung selenoprotein với liều 7,5 g/kg vượt trội so với các nghiệm thức khác (Bảng 1).
Bảng 1. Hiệu suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng sau khi cho ăn 70 ngày
Bổ sung 2,5; 5 và 7,5 g/kg selenoprotein sẽ có giá 0,020, 0,041 và 0,061 USD. Tuy nhiên, trong trường hợp ECR, ECR thấp nhất được tìm thấy ở thức ăn 7,5 g/kg. Thông số ECR cũng đã được chứng minh rằng tất cả các nghiệm thức bổ sung selenoprotein đều tạo ra chi phí thức ăn thấp hơn so với đối chứng (Bảng 2).
Bảng 2. Tỷ lệ chuyển đổi kinh tế (ECR) của mỗi lần bổ sung selenoprotein
Phản ứng miễn dịch, hoạt động chống oxy hóa và sức đề kháng của tôm
Hiệu quả sức khỏe của tôm thẻ chân trắng được nuôi bằng xử lý selenoprotein với liều lượng khác nhau trong 70 ngày và được thử thách với V. parahaemolyticus trong 14 ngày, bao gồm 3 xét nghiệm: đáp ứng miễn dịch, hoạt động chống oxy hóa và sức đề kháng của tôm.
Phản ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein tốt hơn đáng kể so với đối chứng (P<0,05), cả trước và sau khi nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus. Tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein có giá trị THC, PO, RB và LA cao hơn đáng kể (P<0,05) so với đối chứng.
Trong tất cả các nghiệm thức, giá trị THC, PO, RB, PA và LA của tôm thẻ chân trắng đều giảm sau 48h thử nghiệm. Các giá trị THC, RB, PA và LA trong thử nghiệm sau thử thách của tôm thẻ chân trắng được bổ sung selenoprotein là đáng kể (P<0,05) cao hơn đối chứng dương (PC) khi liều selenoprotein trong thức ăn tăng lên. Giá trị PO của thử nghiệm sau thử thách tôm thẻ chân trắng được cho ăn bổ sung selenoprotein ở liều 5 và 7,5 g/kg cao hơn đáng kể so với nhóm PC, trong khi xử lý selenoprotein ở liều 2,5 g/kg không khác biệt đáng kể (P>0,05). Tỷ lệ sống (SR) của tôm thẻ chân trắng tiếp xúc với V. parahaemolyticus và được bổ sung selenoprotein cao hơn đáng kể (P<0,05) so với nhóm PC.
Tóm lại, tôm được bổ sung selenoprotein có khả năng tiêu hóa, tăng trưởng và hiệu quả sức khỏe vượt trội so với đối chứng. Việc sử dụng selenoprotein với liều 7,5 g/ kg thức ăn được coi là hiệu quả nhất để tăng năng suất và ngăn chặn sự tấn công của dịch bệnh trong nuôi tôm thâm canh.
Bảo Châu (Theo Aquaculture Nutrition)
- dịch bệnh li>
- Selenoprotein li> ul>
- Ảnh hưởng của 25-Hydroxyvitamin D3 trong khẩu ăn lên tăng trưởng, chuyển hóa canxi-phospho và khả năng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus Vannamei nuôi ở độ mặn thấp
- Ngành tôm miền Bắc: Tôm khó nuôi, người cạn vốn
- Chế độ ăn cho tôm đực: Thức ăn tươi và thức ăn công thức
- SSP: Chào đón các “ông lớn” ngành thức ăn chăn nuôi gia nhập
- Bangladesh: Xuất khẩu tôm gặp khó do thiếu hụt nguồn cung
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
Tin mới nhất
T3,26/11/2024
- Ảnh hưởng của 25-Hydroxyvitamin D3 trong khẩu ăn lên tăng trưởng, chuyển hóa canxi-phospho và khả năng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus Vannamei nuôi ở độ mặn thấp
- Ngành tôm miền Bắc: Tôm khó nuôi, người cạn vốn
- Chế độ ăn cho tôm đực: Thức ăn tươi và thức ăn công thức
- SSP: Chào đón các “ông lớn” ngành thức ăn chăn nuôi gia nhập
- Bangladesh: Xuất khẩu tôm gặp khó do thiếu hụt nguồn cung
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt