[Tạp chí người Nuôi Tôm] – Cao chiết thầu dầu cho hiệu quả cao nhất với đường kính vòng vô khuẩn 17-18mm, kế đến là cao chiết mật gấu, chùm ngây, ô rô và sài đất với đường kính vòng vô khuẩn ở mức trung bình từ 10-11mm.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu của Hồng Mộng Huyền & Võ Tấn Huy được thực hiện trên 7 loại thảo dược ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm: lá thầu dầu (Ricinus communis L.), cây lưỡi rắn (Hedyotis corymbosa L.), lá mật gấu (Vernonia amygdalina del.), lá chùm ngây (Moringa oleifera), lá lược vàng (Callisia fragrans), cây ô rô (Acanthus ilicifolius L.) và cây sài đất (Wedelia calendulacea (L) Less).
Cây thảo dược được rửa sạch, sấy khô ở 60oC và nghiền thành bột. Bột thảo dược ngâm với methanol có tỉ lệ 1:10 trong 3 ngày. Sau đó dịch chiết được lọc qua giấy lọc Whatman No. 1 và cô quay chân không ở 48oC để loại bỏ dung môi.
7 loại cao chiết thảo dược được sử dụng để xác định hoạt tính kháng khuẩn với 2 chủng vi khuẩn Vibrio spp gây bệnh trên tôm nuôi là V. harveyi và V. parahaemolyticus.
Kết quả nghiên cứu
Hoạt tính kháng khuẩn của thảo dược đối với vi khuẩn V. harveyi và V. parahaemolyticus
Hầu hết các loại cao chiết thảo dược dùng trong nghiên cứu đều có khả năng ức chế sự phát triển của V. harveyi và V. parahaemolitycus. Cụ thể, thầu dầu cho thấy khả năng kháng V. harveyi và V. parahaemolitycus rất tốt với đường kính vòng kháng khuẩn tương ứng là 18,0±1,4 mm và 17,5±0,7 mm.
Nhóm cao chiết mật gấu, chùm ngây, ô rô, sài đất có khả năng kháng V. harveyi ở mức trung bình (đường kính vòng kháng khuẩn ≥ 10 mm), trong khi lưỡi rắn và lược vàng thì gần như không thể hiện được hoạt tính kháng khuẩn đối với chủng vi khuẩn này (Hình 1). Tuy nhiên, đối với V. parahaemolitycus, nhóm cao chiết mật gấu, chùm ngây, ô rô, sài đất cho thấy hiệu quả thấp hơn (đường kính vòng kháng khuẩn ≥ 8,0 – 9,5 mm), cây lưỡi rắn và lược vàng cũng cho hiệu quả tương tự 7,0 mm và 7,5 mm.
MIC và MBC của thảo dược đối với vi khuẩn V. harveyi và V. parahaemolyticus
Kết quả xác định hoạt tính kháng khuẩn cho thấy cao chiết thầu dầu kháng tốt (nhạy) đối với hai chủng vi khuẩn V. harveyi và V. parahaemolitycus gây bệnh trên tôm, cho nên cao chiết thầu dầu sẽ được sử dụng để tiếp tục xác định MIC và MBC. Nghiên cứu cho thấy, cao chiết từ cây thầu dầu có khả năng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn V. harveyi (1,25 mg/ ml) và V. parahaemolitycus (2,5 mg/ml) và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu được tìm thấy đối với hai chủng vi khuẩn này tương ứng là 2,5 mg/ml và 5,0 mg/ml.
Kết luận
Chất chiết thầu dầu có hoạt tính kháng khuẩn cao nhất trong bảy loại chất chiết thảo dược được khảo sát. Khả năng kháng khuẩn của chất chiết thầu dầu đối với vi khuẩn V. harveyi cao hơn so với V. parahaemolitycus. Thông qua các kết quả đạt được, cao chiết thầu dầu có thể sử dụng như một chất có khả năng diệt khuẩn và có tiềm năng là nguồn thực phẩm giúp tôm nuôi tăng cường khả năng kháng vi khuẩn V. harveyi gây bệnh Phát sáng và V. parahaemolitycus gây bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính.
Theo nghiên cứu của Hồng Mộng Huyền & cs. (2018). Đăng trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số chuyên đề: Thủy sản (2018)(2): 143-150
Hà Anh
- Thầu dầu li> ul>
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt